Bệnh Gout
Bệnh gout
Bệnh GOUT, dân gian còn gọi là bệnh thống phong, là một bệnh khớp sinh ra do rối loạn chuyển hóa các nhân purin, dẫn đến tăng acid uric máu. Khi acid uric máu tăng đến một mức nào đó (mức độ này thay đổi ở từng cá thể), chúng sẽ bị bão hòa ở dịch ngoài tế bào dẫn đến lắng đọng tại các mô, khớp, thận, gây nên các triệu chứng của bệnh gút trên lâm sàng. Bệnh thường gặp ở nam giới tuổi trung niên, đặc biệt là ởnhững người béo, ưa uống rượu, ăn chế độ nhiều đạm.
Tay của người mắc bệnh Gout.
I. Nguyên nhân gây nên bệnh Gout
Bệnh gout bị gây ra do quá nhiều axit uric trong máu (còn gọi là đa axit uric): Trên 420 μmol/L (ở nam) hay 380 μmol/L (ở nữ). Đa axit uric thường thì vô hại, và đa số người có độ axit uric trong máu cao không phát triển thành bệnh gout. Nguyên nhân chính của chứng đa axit uric đôi khi không phát hiện được, mặc dù các yếu tố di truyền dường như cũng có ảnh hưởng. Khi mức axit uric trong máu quá cao, axit uric có thể kết tủa thành các tinh thể (dài hình kim, đầu nhọn) tích tụ trong khớp xương. Bệnh gout hình như bộc phát không có nguyên nhân cụ thể, hoặc gây ra do:
- Những điều kiện liên quan đến chế độ ăn và trọng lượng cơ thể như:
- Béo phì (14kg trên mức cân lý tưởng)
- Uống rượu, nhất là bia, từ mức trung bình đến rất nhiều (trên 2 ly/ngày đối với nam, 1 ly đối với nữ)
- Chế độ ăn nhiều thịt và đồ biển (chứa nhiều purine)
- Chế độ ăn kiêng rất ít ca-lô-ri
- Trị liệu có thể làm tăng mức tập trung axit uric như:
- Thường dùng aspirin hay niacin (1-2 viên/ngày)
- Thuốc làm giảm lượng muối và nước trong cơ thể (như thuốc xổ tiểu làm giảm huyết áp)
- Trị liệu làm tế bào chết nhanh chóng (ví dụ, xạ trị điều trị ung thư)
- Thuốc khống chế hệ miễn nhiễm như cyclosporine, dùng để ngăn cơ thể không phản ứng với 1 bộ phận ghép
- Bệnh nặng hay các tình trạng sức khỏe như:
- Sút cân nhanh, như ở các bệnh nhân trong bệnh viện thay đổi chế độ ăn hay thuốc uống.
- Bệnh thận mãn tính
- Cao huyết áp
- Những điều kiện gây ra mức sản sinh tế bào bất thường như: psoriasis, multiple myeloma, hemolytic anemia, hay ung bướu
- Nhiễm độc chì
- Thiểu năng tuyến giáp
- Giải phẫu
- Sinh ra với tình trạng hiếm có gây cao axit uric trong máu. Những người bị hội chứng Kelley-Seegmiller hay Lesch-Nyhan bị thiểu năng 1 phần hay toàn phần trong 1 phân hóa tố giúp kiểm soát mức axit uric.
Những tinh thể kết tủa còn có thể gây ra 1 chứng khác, gọi là gout giả. Nhưng thay vì gồm có axit uric, tinh thể gout giả lại được tạo thành từ dihydrat pyrophosphat calci. Và trong khi gout giả có thể tấn công ngón chân cái, nó thường tấn công những khớp to như đầu gối, cổ tay, và khớp bàn chân (ở mắt cá).
Những yếu tố nào làm tăng nguy cơ bị bệnh?
Những yếu tố dưới đây (ngoài những gì đã nêu ở phần “nguyên nhân”) có thể hoặc là gây ra đa axit uric hoặc làm khớp dễ bị đóng axit uric:
- Nam (40-50 tuổi); nữ sau mãn kinh
- Tiền sử gia đình bị bệnh gout (nguy cơ 20%)
- Thường bị mất nước
- Tổn thương khớp
- Xơ vữa động mạch
- Bệnh tim
- Tiểu đường
- Cao cholesterol (mỡ trong máu)
- Hẹp động mạch
II. Các triệu chứng của người bị bệnh Gout
Bệnh gout thường phát ra sau 1 số năm tích tụ tinh thể axit uric trong khớp và các mô bao quanh. Triệu chứng bao gồm: nóng, đau, sưng, và rất mềm ở 1 khớp, thường là 1 ngón chân cái. Triệu chứng này gọi là podagra.
Cơn đau bắt đầu trong đêm và nhiều đến mức chỉ cần tấm drap trải giường chạm nhẹ vào cũng đau không chịu nổi.
Sự khó chịu tăng nhanh, kéo dài mấy giờ trong đêm rồi giảm trong 2-7 ngày sau đó.
Khi cơn gout giảm, lớp da quanh khớp bị đau có thể tróc ra hay ngứa.
Các triệu chứng khác có thể gồm:
- Da rất đỏ hay hơi tím quanh khớp bị đau, có vẻ bị nhiễm trùng.
- Sốt
- Cử động khớp hạn chế
Triệu chứng gout thay đổi.
- Triệu chứng có thể có sau 1 cơn bệnh hay giải phẫu
- Một số người có thể không bị gout với những cơn đau mà là gout mãn tính. Gout mãn tính ở những người lớn tuổi có thể ít đau hơn và có thể bị nhầm với các loại viêm khớp khác.
- Bệnh gout có thể xuất hiện như những cục trên bàn tay, khuỷu tay, hay tai. Có thể không có những triệu chứng thông thường.
Đến lúc bạn thấy những triệu chứng của gout, thì axit uric đã tích tụ trong máu, và kết tủa axit uric đã có trong 1 hay nhiều khớp rồi.
Ngón chân cái thường bị nhất; tuy nhiên, khớp bàn chân, mắt cá, đầu gối, cổ tay, ngón tay, và khuỷu tay cũng có thể bị. Sưng túi dịch đệm các cơ có thể thấy, nhất là ở khuỷu tay và đầu gối.
III. Diễn biến của bệnh Gout
Những cơn đau nhẹ có thể ngưng sau vài giờ hay kéo dài 1-2 ngày. Những cơn đau này thường bị chẩn đoán sai là “bong gân” dù rằng không bị tổn thương nặng hay vận động quá nhiều.
Cơn đau nặng có thể kéo dài đến nhiều tuần, đau có thể đến cả tháng.
Đa số những người bị cơn đau thứ nhì trong vòng 6 tháng đến 2 năm sau lần thứ nhất, nhưng khoảng cách giữa những cơn đau có thể là nhiều năm. Nếu không chữa trị, khoảng cách sẽ giảm theo thời gian. Tuy nhiên, một số người không bao giờ bị đau lần 2.
Bệnh gout có 4 giai đoạn.
- Giai đoạn 1: độ uric trong máu cao (không triệu chứng)
- Giai đoạn 2: viêm khớp cấp tính
Các tinh thể axit uric bắt đầu tích tụ trong chất dịch ở khớp, thường là 1 khớp (phổ biến nhất là ngón chân cái) và cơ thể phản ứng sưng đột ngột: đó là cơn đau gout.
Khoảng 10-25% người bị gout sẽ bị sỏi thận.
Khoảng 10-40% người bị gout có sỏi thận trước khi bị cơn đau khớp.
Sau cơn đau, khớp bị đau và các mô xung quanh cảm thấy bình thường trong vòng vài ngày cho đến khi bị lần tiếp theo, thường xảy ra trong vòng 2 năm.
- Giai đoạn 3: đau cách khoảng
Nếu bạn đã từng bị cơn đau gout, bạn rất có thể bị 1 cơn nữa.
Ở bệnh này, bạn không thấy triệu chứng trong thời gian giữa 2 lần đau.
Ở nhiều người, giai đoạn này tiến triển chậm khi các cơn đau xảy ra thường hơn. Những cơn sau có thể đau hơn, lâu hơn, và ở nhiều khớp hơn.
- Giai đoạn 4: gout mãn tính
Nếu triệu chứng gout tái đi tái lại mà không điều trị trong 10 năm hay lâu hơn, chúng có thể trở thành mãn tính và thường tấn công nhiều khớp hơn. Có thể không còn khoảng cách giữa các cơn đau. Giai đoạn này thường bị nhầm với các dạng viêm khớp khác, nhất là viêm xương khớp.
Đến lúc này, đã đủ tinh thể axit uric tích tụ trong cơ thể để tạo thành những cục trông giống phấn bảng gọi là tophi. Khi ở dưới da, những cục này thường cứng và chạy tới chạy lui. Lớp da trên đó có thể mỏng và đỏ. Những cục tophi sát da có thể có màu kem hay vàng.
Ban đầu, các cục tophi thường thấy ở hay gần khuỷu tay, trên ngón tay, ngón chân, hay trên vành ngoài của tai.
Nếu tình trạng cứ tiến triển mà không chữa trị, cục tophi có thể xuất hiện ở lớp sụn của tai hay các mô quanh khớp (túi dịch, dây chằng và gân), gây đau đớn, sưng, đỏ, nóng (viêm). Có thể tàn tật, cũng như sụn và xương bị hủy hoại.
May thay, những tấn công trong cách điều trị sớm đã làm cho giai đoạn này ít xảy ra.
IV. Biến chứng của bệnh Gout
Khi bị mắc bệnh mà điều trị không đúng hoặc không được điều trị bệnh để lại những biến chứng, có thể dẫn đến những hậu quả nặng nề, thậm chí tử vong. Có 4 loại biến chứng của gút. Loại biến chứng thứ nhất liên quan đến tổn thương xương khớp. Đó là tình trạng hủy hoại khớp, đầu xương, làm bệnh nhân tàn phế. Các hạt tôphi bị loét vỡ, khiến vi khuẩn xâm nhập vào trong khớp gây viêm khớp nhiễm khuẩn, nhiễm khuẩn huyết. Các biến chứng thứ hai liên quan tổn thương thận như sỏi thận, thận ứ nước ứ mủ, suy thận, tăng huyết áp, tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim... Loại biến chứng thứ ba liên quan đến chẩn đoán nhầm. Bệnh thường chẩn đoán nhầm với viêm khớp nhiễm khuẩn và được điều trị bằng rất nhiều loại kháng sinh khác nhau, và có nguy cơ bị dị ứng thuốc kháng sinh, thậm chí có thể gây tử vong. Một trong những chẩn đoán nhầm khác là viêm khớp dạng thấp. Từ đó dẫn đến điều trị tràn lan bằng các thuốc chống viêm không steroid, prednisolon, dexamethason, với hậu quả là biến chứng lao, loãng xương, gãy xương, đái tháo đường, tăng huyết áp. Các biến chứng thứ tư liên quan đến tai biến do dùng thuốc. Ngay cả khi chẩn đoán đúng, việc điều trị gút cũng có thể gây nên tai biến. Các thuốc chống viêm không steroid có thể gây tổn thương nhiều cơ quan như máu, thận, tiêu hóa, dị ứng.
V. Cách điều trị bệnh Gout
Mục tiêu điều trị gout là giảm đau nhanh và phòng những cơn đau sau này cùng những tiến triển lâu dài, như hỏng khớp và hư thận. Điều trị gồm có thuốc và các bước thực hiện ở nhà để ngăn chặn những cơn đau sau này.
Trị liệu ban đầu
Trị liệu bệnh gout với thuốc nhằm giảm các triệu chứng và các biện pháp lọai bỏ nguyên nhân gây bệnh.Liệu pháp cụ thể còn tùy bạn đang bị cơn đau cấp tính hay đang ngăn ngừa các cơn đau sau.
Để giảm đau, sưng, đỏ, và nóng ở khớp bị đau trong cơn tấn công cấp tính:
- Cho khớp bị đau được nghỉ
- Uống 1 hay nhiều loại thuốc sau đây ngay khi có dấu hiệu đầu tiên của cơn đau, theo toa bác sĩ:
+ Các loại thuốc chống viêm không có steroid như ibuprofen (như thuốc cảm Advil, Motrin…), naproxen (như Aleve, …) hay indomethacin. Hãy lưu ý rằng những loại thuốc này có thể gây ra tác dụng phụ, gồm cả đau bao tử, xuất huyết và loét bao tử. Hơn nữa, các thuốc này có tác dụng nóc – giới hạn của tác dụng giảm đau. Điều này có nghĩa là trên liều lượng tối đa, thì thuốc cũng không có thêm tác dụng giảm đau. Ngoài ra, nên tránh uống aspirin vì nó có thể gây ra thay đổi đột ngột về mức axit uric trong máu và làm bệnh tệ hơn.
+ Colchixin
+ Corticosteroid (ví dụ như Prednisone)
Mặc dù các loại steroid có thể làm giảm đau rõ rệt, chúng cũng có thể gây ra tác dụng phụ, kể cả loãng xương, chậm lành vết thương và suy giảm hệ miễn dịch. Đôi khi bác sĩ tiêm cortison vào khớp đau. Nhưng cách này vẫn có thể gây ra tác dụng phụ, và tiêm thì không quá 3 mũi một năm.
+ Probenecid, sulfinpyrazone
+ Kích thích tố adrenocorticotropic
Một khi cơn đau cấp tính đã qua, bác sĩ có thể đề nghị trị liệu phòng ngừa để làm chậm lại hay tăng lên tốc độ cơ thể sản sinh ra axit uric.
Điều chỉnh chế độ ăn uống
Vì béo phì có thể liên quan đếnmức axit uric cao, bác sĩ thường chỉ định chế độ ăn uống đặc biệt để giúp giảm / kiểm soát trọng lượng cơ thể. Nhưng kiêng cữ hay áp dụng chế độ ăn uống quá nghiêm nhặt có thể nâng mức axit uric và làm bệnh gout tệ thêm.
Đa số bệnh nhân gout có thể ăn những gì mình thích, trong giới hạn. Những người bị sỏi thận do axit uric có thể cần tránh hay giới hạn những thực phẩm (có nhiều purin) làm tăng mức axit uric như: cá mòi, cá cơm, cá trích, sò ốc (như: paua, pipi, hến, trai), trứng cá, sò điệp, nước hầm xương, nước sốt (lấy từ lò nướng), óc, cật, gan, tim, lưỡi, bao tử, phèo/lá lách, và thịt đỏ (như thịt bò/cừu; nhất là thịt quay/ nướng); măng tây, nấm, đậu Hòa lan, đậu lentil, và đậu ve. Hầu hết mọi người mỗi ngày chỉ nên ăn khoảng 150-200g thịt nạc heo/bò, thịt gà, hay cá. Những bệnh nhân gout có thể uống cà phê và trà, nhưng cần phải giới hạn mức cồn (nhất là bia và rượu). Để tống các tinh thể axit uric ra khỏi cơ thể, bệnh nhân gout nên uống mỗi ngày ít nhất 10-12 ly nước lã hay nước giải khát không cồn (loại ly thấp ¼ lít).
Thay đổi loại thuốc trị cao huyết áp, nếu có uống.
Để ngăn ngừa cơn đau tái phát:
Uống những loại thuốc làm giảm mức axit uric trong máu:
- Thuốc giúp thận tăng sự ức chế axit uric: như benzbromarone, probenecid (Benemid), sulfinpyrazone
- Allopurinol làm giảm mức cơ thể sản sinh axit uric
- Colchicines thường được chỉ định để ngừa cơn đau bộc phát trong những tháng đầu bạn dùng thuốc hạ axit uric.
Theo các bước để giảm nguy cơ tái phát:
- Thừa cân là 1 yếu tố dễ mắc bệnh gout. Nếu bạn thừa cân, 1 chế độ ăn ít dầu mỡ có thể giúp bạn giảm cân. Tuy nhiên, các chế độ ăn kiêng quá ít ca-lô-ri lại làm cơ thể tăng lượng axit uric và có thể gây ra cơn đau gout.
- Chất cồn có thể làm thận giảm bài tiết axit uric ra nước tiểu, làm tăng mức axit uric trong cơ thể. Bia, rất giàu chất purin, hình như có hại hơn một số thức uống có cồn khác.
- Các chế độ ăn nhiều thịt và đồ biển (là những thực phẩm giàu purin) có thể làm tăng mức axit uric.
- Một số thuốc có thể được chỉ định cho các bệnh khác lại làm giảm mức thải axit uric của thận. Gồm có các loại thuốc viên giảm muối và nước trong cơ thể, niacin, hoặc thường xuyên dùng aspirin. Trao đổi với bác sĩ về các loại thuốc khác có cùng hiệu quả nhưng an toàn hơn đối với bệnh gout.
Theo 1 chương trình thể dục vừa phải:
Đa số bệnh nhân gout sẽ phải uống thuốc giảm axit uric suốt đời.Tuy nhiên, trong một vài trường hợp, một số người có thể giảm mức axit uric đến bình thường bằng cách kiểm soát trọng lượng của mình, không uống rượu, và tránh dùng 1 số thuốc cho các bệnh khác.
Khi mức axit uric trong máu cao nhưng không có triệu chứng đau, thì trị liệu là không cần thiết ở những người khỏe mạnh.Tuy nhiên, những người có mức axit uric quá cao có thể phải thường xuyên xét nghiệm để xem dấu hiệu tổn thương thận, và cần trị liệu lâu dài để giảm mức axit uric cho đến mức bình thường.
Trị liệu kéo dài
Nếu bạn đã bị 1 cơn đau gout, bạn có nhiều khả năng bị lại, nhất là nếu bạn không dùng thuốc hay các trị liệu khác.Mục tiêu trị liệu là ngăn ngừa các cơn tái phát sau này, giảm mức axit uric, và phát hiện cũng như điều trị các nguyên nhân gây cao axit uric.
Khi nào phải đến bác sĩ?
Gọi hay đến bác sĩ ngay nếu bạn có những triệu chứng sau:
- Đau dữ dội ở 1 khớp, bộc phát rất nhanh
- Sưng, mềm khớp với lớp da bên trên nóng, đỏ.
Chờ đợi trong cảnh giác
Trong 1 cơn đau gout, bạn có thể làm giảm nhẹ bằng cách uống thuốc chống viêm không có steroid (NSAID), và để khớp đau được nghỉ ngơi, cho đến khi cơn đau chấm dứt. Khăn chườm nóng và nâng bộ phận có khớp đau lên cao có thể giúp bạn cảm thấy đỡ hơn.
Mặc dù aspirin cũng là 1 NSAID, đừng dùng nó khi bị gout.
Bạn nhất thiết phải đến bác sĩ cho dù cơn đau đã qua. Axit uric tích tụ đã gây ra cơn gout có thể vẫn còn tấn công khớp của bạn và cuối cùng có thể làm tổn thương khớp. Bác sĩ có thể cho toa để ngăn ngừa hay đảo ngược mức tích tụ axit uric.
VI. Cách phòng tránh bệnh Gout
Có thể phòng tránh được bệnh gút bằng việc thực hiện một chế độ ăn uống sinh hoạt lành mạnh và khoa học. Vì ăn uống bừa bãi là một yếu tố thúc đẩy làm xuất hiện bệnh và làm bệnh tái phát. Các nguyên tắc vệ sinh ăn uống đối với bệnh nhân gút là chế độ ăn giảm đạm, giảm mỡ, giảm cân (nếu béo phì) và uống nhiều nước (khoảng 1,5-2 lít nước/ngày), đặc biệt là nước khoáng kiềm (để tăng cường thải tiết acid uric qua nước tiểu).
Thứ nhất, lượng thịt ăn hằng ngày không nên quá 15g, đặc biệt cần tránh ăn phủ tạng động vật (lòng lợn, tiết canh, gan, thận, óc, dạ dày, lưỡi...), các loại thịt đỏ (thịt trâu, bò, chó, dê), các loại hải sản (tôm, cua, cá béo). Có thể ăn trứng, sữa, phomat, thịt trắng như thịt gia cầm, cá nạc.
Thứ hai là nên ăn thêm ngũ cốc, bánh mì trắng.
Thứ ba là ăn nhiều rau xanh, cà rốt, bắp cải, đậu phụ, hoa quả.
Thứ tư là cần tránh ăn những thức ăn chua như nem chua, dưa hành muối, canh chua, hoa quả chua, uống nước chanh... vì chính những chất chua lại làm bệnh nặng hơn.
Thứ năm là về các đồ uống. Bệnh nhân cần bỏ rượu, kể cả rượu vang, rượu thuốc.
Bệnh nhân gút cần có chế độ sinh hoạt điều độ, làm việc nhẹ nhàng, tránh mọi mỏi mệt cả về tinh thần lẫn thể chất như tránh lạnh, lao động quá mức, chấn thương, stress... Ngoài ra, bệnh nhân gút cần tránh dùng một số loại thuốc có thể làm tăng acid uric máu như các thuốc lợi tiểu, corticoid, aspirin.
Gút là một bệnh khớp do rối loạn chuyển hóa nhân purin của tế bào, có thể nói nôm na là rối loạn chuyển hóa đạm, được đặc trưng bởi sự tăng cao quá mức acid uric trong máu và trong các mô của cơ thể. Các tinh thể urat lắng đọng vào màng hoạt dịch của khớp gây nên viêm khớp vi tinh thể với những triệu chứng rất đặc trưng.
Các khó khăn chính gặp phải khi chẩn đoán bệnh Gout
Khi bệnh ở thể điển hình thì có thể phát hiện được không mấy khó khăn. Chẩn đoán bệnh hiện nay vẫn dựa vào tiêu chuẩn chẩn đoán quốc tế của Hội thấp khớp học Hoa Kỳ 1968. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, chẩn đoán gút còn gặp nhiều khó khăn. Có 3 nguyên nhân chính gây khó khăn cho công tác chẩn đoán. Thứ nhất, đây là bệnh khá mới nên ngay cả cán bộ y tế vẫn còn lúng túng khi chẩn đoán và điều trị bệnh. Nhiều cơ sở y tế lại chưa có khả năng làm các xét nghiệm cần thiết như chọc dịch khớp, xét nghiệm acid uric máu... nên bỏ qua, không chẩn đoán được bệnh. Nguyên nhân thứ hai là bệnh có rất nhiều biểu hiện và nhiều thể bệnh khác nhau, nên dễ chẩn đoán nhầm với các bệnh khác. Nguyên nhân thứ ba là tình trạng lạm dụng thuốc bừa bãi hiện nay. Bệnh nhân được dùng quá nhiều loại thuốc nên mất hết triệu chứng, khiến chẩn đoán trở nên rất khó khăn. Có nhiều bệnh nhân gút vào viện với các biến chứng nặng nề do lạm dụng thuốc như đái tháo đường, tăng huyết áp, tai biến mạch máu não.
Các hiểu biết giúp cho chẩn đoán bệnh chính xác
Chú ý đến đối tượng và lứa tuổi hay mắc bệnh: Bệnh chủ yếu gặp ở nam giới trưởng thành. Tuyệt đại đa số các bệnh nhân gút là nam giới. Nam dễ bị bệnh, có thể do lối sống, chế độ ăn uống (rượu, bia) và vấn đề di truyền. Về tuổi: bệnh thường gặp nhất ở độ tuổi 40-60. Ở nữ giới bệnh thường xảy ra sau thời kỳ mãn kinh.
Các biểu hiện chính của bệnh gút giúp ích cho việc chẩn đoán: Để phát hiện sớm được bệnh gút, cần chú ý đến 3 biểu hiện lâm sàng chính của bệnh gồm các tổn thương khớp, xuất hiện hạt tophi và tổn thương thận. Biểu hiện đặc trưng đầu tiên của bệnh gút là các viêm khớp cấp tính do gút. Cơn xuất hiện đột ngột, thường vào ban đêm. Khớp hay bị tổn thương là các khớp ở chi dưới: gối, cổ chân và đặc biệt là ngón chân cái... Khớp bị tổn thương đau ghê gớm, bỏng rát, đau làm mất ngủ, da trên vùng khớp hay cạnh khớp sưng nề, có màu hồng hoặc đỏ. Thường kèm theo cảm giác mệt mỏi, đôi khi sốt 38-38,5oC, có thể kèm rét run. Một đặc điểm nữa là khi uống thuốc colchicin thì bệnh nhân thấy giảm đau khớp nhanh trong vòng 48-72 giờ. Các đợt viêm khớp này có thể tự khỏi sau khoảng 1-2 tuần. Sau đó lại xuất hiện các đợt viêm khớp mới. Khi tiến triển lâu dài thì bệnh chuyển sang giai đoạn mới. Đó là gút mạn tính. Các khớp bị sưng đau thường xuyên, dần dần bị biến dạng, cứng khớp, dẫn đến tàn phế. Biểu hiện thứ hai của bệnh gút là xuất hiện các hạt tophi ở trên các khớp bị tổn thương như khớp cổ chân, bàn ngón chân... Đó là các u cục nổi lên dưới da, không đau, da phủ trên đó bình thường, mỏng, dưới da có thể nhìn thấy chất bột trắng. Hạt tophi cũng có thể ở tình trạng viêm cấp, hoặc rò ra chất nhão và trắng như phấn. Biểu hiện thứ ba của bệnh gút là tổn thương thận.
Trong gút mạn tính có thể có lắng đọng muối urat trong thận tạo thành sỏi thận. Khi đó bệnh nhân có các cơn đau quặn thận, đái ra máu, đái ra sỏi, hay thậm chí không có nước tiểu do sỏi làm tắc nghẽn đường tiết niệu. Để chẩn đoán chính xác bệnh gút cần làm thêm xét nghiệm định lượng acid uric trong máu. Thường phát hiện được nồng độ acid uric máu tăng cao. Các xét nghiệm khác và Xquang khớp tổn thương cho phép xác định mức độ tổn thương và phát hiện các bệnh khác kèm theo.
Chẩn đoán nguyên nhân và yếu tố thuận lợi gây bệnh: Có hai nhóm nguyên nhân lớn của bệnh gút là gút nguyên phát và gút thứ phát. Gút nguyên phát là thể bệnh gặp nhiều nhất, có tính chất di truyền và mang tính gia đình. Gút thứ phát có nguyên nhân do tăng acid uric máu thứ phát, gây nên bởi một số bệnh như bệnh thận, bệnh máu, do sử dụng một số thuốc, hay do nhiễm độc chì. Có 5 yếu tố thuận lợi gây bệnh chính. Thứ nhất là yếu tố gia đình. Có tới 30% bệnh nhân gút có người thân trong gia đình cũng mắc bệnh này. Thứ hai là yếu tố nghề nghiệp. Đa số bệnh nhân là trí thức, thương gia, chủ doanh nghiệp. Vì vậy có câu gút là vua của các bệnh và là bệnh của các vua. Nói là vua của các bệnh vì gút cấp gây đau khớp ghê gớm. Nói bệnh của các vua là vì gút trước hết thường hay gặp ở vua chúa, hay những người giàu có. Thứ ba là tật nghiện bia rượu. Ở Việt Nam có tới 75% bệnh nhân gút uống rượu bia thường xuyên trung bình từ 7-10 năm. Thứ tư là các rối loạn chuyển hóa khác như tăng acid uric máu, tăng đường máu, tăng mỡ máu. Các nghiên cứu khoa học đã chứng tỏ người béo phì có nguy cơ mắc bệnh gút gấp 5 lần so với những người có cân nặng bình thường. Tăng huyết áp cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh gút lên 3 lần. Thứ năm là tiền sử dùng một số thuốc làm tăng acid uric máu như thuốc lợi tiểu, corticoid, aspirin, thuốc chống lao.
Tóm lại, khi bệnh nhân đau sưng các khớp ở chi dưới, có các tính chất như cơn gút cấp, hay có các hạt tophi hay bị sỏi thận, đặc biệt ở bệnh nhân nam giới, cần phải nghĩ đến bệnh gút trước tiên và người bệnh cần đến khám bác sĩ chuyên khoa cơ xương khớp để chẩn đoán bệnh và điều trị kịp thời.