Tác dụng của nước vối, lá vối
Cây vối
Cây vối có tên khoa học là Cleistocalyx operculatus, thuộc họ Sim (Myrtaceae), là loại cây mọc nhiều ở nhiệt đới. Ở nước ta cây vối mọc hoang hoặc trồng, có nhiều ở miền Bắc nước ta. Vối là loại cây thân mộc cỡ vừa, có thể cao tới 12–15m. Vỏ màu nâu đen, nứt dọc. Cành cây tròn hay đôi khi có hình 4 cạnh, nhẵn. Lá hình trái xoan ngược hay bầu dục, hình trứng rộng, giảm nhọn ở gốc, có mũi nhọn ngắn, hai mặt cùng màu nhạt có đốm màu nâu, phiến dày, dai, cứng, lá già có chấm đen ở mặt dưới. Cuống lá ngắn tầm 1-1,5 cm. Hoa nhỏ, màu trắng lục, họp thành cụm 3-5 hoa ở nách lá. Nụ hoa dài, 4 cánh, nhiều nhị. Cụm hoa hình tháp, trải ra ở kẽ các lá đã rụng. Cây ra hoa tháng 5-7. Quả hình cầu hay hình trứng, nhăn nheo, đường kính 7-12mm, nháp, có dịch, khi chín màu tím. Toàn lá, cành non và nụ có mùi thơm dễ chịu. Cây mọc hoang và được trồng ở khắp nơi. Trong lá vối có tanin, một số chất khoáng, vitamin và khoảng 4% tinh dầu với mùi thơm dễ chịu và có một chất kháng sinh diệt được nhiều loại vi khuẩn gây bệnh.
Lá vối là loại nước uống mang lại nhiều tác dụng tốt cho sức khỏe mà dân gian từ lâu vẫn hay dùng.
Trong dân gian phân biệt vối có hai loại, một loại lá nhỏ hơn bàn tay, màu vàng xanh, thường gọi là "vối kê" hay "vối nếp". Loại thứ hai lá to hơn bàn tay, hình thoi, màu xanh thẫm gọi là "vối tẻ". Lại cũng có nơi phân biệt vối trâu và vối quế. Vối trâu lá mỏng, xanh đậm và to bản còn vối quế lá dày, nhỏ.
Nhắc đến lá vối chắc hẳn ai cũng nghĩ ngay tới một loại nước uống dân dã, ngon miệng và dễ uống lại có tác dụng thanh nhiệt, kích thích tiêu hóa và chống đầy bụng. Cây vối thường được dùng để lấy lá và nụ để nấu nước uống, vối có hai loại là vối nếp và vối tẻ, lá có màu vàng xanh. Lá vối tẻ thường to hơn lá vối nếp, lá của nó bé bằng hoặc lớn hơn bàn tay người, có hình thoi màu xanh thẫm. Hoa vối thường nở thành chùm đan vào nhau, hoa thường nở vào mùa xuân, còn quả vối thì có màu đỏ thẫm giống với quả bồ quân, vị hơi chát và đắng.
Tác dụng của nụ vối
Theo Đông y: Nụ vối có vị đắng, tính hàn. Có tác dụng thanh nhiệt, tán độc, tiêu thực, hóa trệ (trừ tích trệ). Dùng chữa ngoại cảm phát sốt, sợ rét, đau đầu và ăn uống không tiêu. Ngoài ra còn dùng chữa mụn nhọt lở loét ngoài da.
Kết quả nghiên cứu của phòng Đông y thực nghiệm, Viện nghiên cứu Đông y cho thấy: Nụ vối và lá vối có tác dụng kháng sinh đối các nhiều loại vi khuẩn như Gram+, Gram-, Streptococus (hemolytic và staman), vi trùng bạch hầu, Staphyllococcus, Pneumcoccus, phế cầu, Salmonella, Bacillus subtilis, ... và không gây độc hại đối với cơ thể. Chính vậy mà lá vối tươi hay khô sắc đặc được coi như một loại thuốc sát khuẩn dùng trị liệu các bệnh ngoài da như ghẻ lở, mụn nhọt hoặc lấy lá vối tươi nấu lấy nước đặc để gội đầu chữa chốc lở rất hiệu nghiệm.
Viện Đông y đã thử nghiệm dùng nụ vối, lá vối chữa một số bệnh đường ruột, viêm họng, bệnh ngoài da đạt kết quả tốt; có thể dùng dưới dạng thuốc sắc, thuốc cao hay thuốc viên hoặc dưới dạng muối natri.
Hàng ngày có thể dùng 6-12g nụ vối khô, nấu hoặc hãm nước uống thay trà, để tăng cường chức năng tiêu hóa, dự phòng các bệnh viêm nhiễm đường hô hấp và tiêu hóa.
Vối được sử dụng có hai loại, một loại lá nhỏ hơn bàn tay, màu vàng xanh gọi là vối kê hay vối nếp; còn loại lá to hơn bàn tay, hình thoi, màu xanh thẫm gọi là vối tẻ. Hoa thành chùm tới hàng trăm nụ đan cài vào nhau và nở vào xuân, quả vối chín có màu đỏ thẫm giống quả bồ quân, ăn hơi chát và vị hơi đắng.
Các kết quả nghiên cứu về vối cho thấy trong lá và nụ vối chứa tanin, khoáng chất và vitamin... khoảng 4% tinh dầu với mùi thơm dễ chịu.
Nụ vối là loại nước uống được nhiều người ưa chuộng.
Nước vối và nụ vối
Gần đây người ta còn phát hiện trong nụ vối chứa một hàm lượng polyphenol cao (tương đương 128mg catechin/gam trọng lượng khô) và hoạt chất ức chế men alpha-glucosidase nên có thể hỗ trợ phòng và điều trị chứng tiểu đường. Các kết quả được tiến hành trong phòng thí nghiệm cũng cho thấy nụ vối có khả năng triệt tiêu các gốc tự do, chống ô xy hoá mạnh. Khả năng chống ô xy hoá (antioxydants) của nụ vối đã làm giảm sự hình thành đục thuỷ tinh thể, bảo vệ sự tổn thương tế bào bê-ta tuyến tuỵ, phục hồi các men chống ô xy hoá trong cơ thể.
Theo các kết quả nghiên cứu trên động vật, các nhà khoa học của Viện dinh dưỡng quốc gia và Đại học phụ nữ Nhật Bản đã rút ra kết luận: Nụ vối có khả năng hạn chế tăng đường huyết sau ăn và hỗ trợ ổn định đường huyết, hỗ trợ giảm lipid máu, phòng ngừa biến chứng của đái tháo đường khi điều trị lâu dài mà được sử dụng nước nụ vối uống thường xuyên.
Theo Đông y lá vối có tác dụng kiện tỳ, giúp ăn ngon, tiêu hoá tốt. Chất đắng có trong vối sẽ kích thích tiết nhiều dịch tiêu hoá; mặt khác chất tanin lại bảo vệ niêm mạc ruột, còn chất tinh dầu có tính kháng khuẩn cao nhưng không làm tổn hại đến những loại vi khuẩn có ích cư trú tại ống tiêu hoá.
Kinh nghiệm dân gian cho biết lá vối tươi có công hiệu trị bệnh cao hơn hẳn lá vối đã ủ. Do vậy lá vối nấu nước uống có khả năng trợ giúp chữa trị các bệnh chứng hoặc các tổn thương như bỏng, viêm gan, vàng da, viêm da lở ngứa. Đông y còn dùng vỏ cây vối làm thuốc gọi là hậu phác; được sử dụng để trị đau bụng, đầy trướng ăn không tiêu, nôn mửa...
Song nước vối còn là loại có công hiệu giải khát trong những ngày hè nóng nực, làm mát và lợi tiểu nên còn có công năng đào thải các độc chất trong cơ thể qua đường niệu. Các nghiên cứu còn cho thấy nếu chỉ uống nước lọc hoặc nước trắng thì sau 30 - 40 phút là cơ thể đào thải hết; nhưng nếu uống nước lá vối hoặc nụ vối thì cũng trong thời gian ấy cơ thể chỉ thải loại 1/5 lượng nước đã uống, phần còn lại sẽ được đào thải từ từ sau đó.
Một số tác dụng của lá vối
Cải thiện hệ tiêu hóa
Trong lá vối có rất ít tannin, vết ancaloit và 4% tinh dầu mùi thơm dễ chịu. Theo Đông y, lá vối có tính vị qui kinh, nụ và lá vối có tính hàn mát, vị đắng không có độc có tác dụng thanh nhiệt giải biểu (mồ hôi), kiện tỳ, tiêu thực trừ được tích trệ (ăn không tiêu); chữa được ngoại cảm phát sốt, sợ rét đau đầu.
Chất đắng trong lá và nụ vối kích thích nhiều dịch vị tiêu hóa. Mặt khác, chất tannin giúp bảo vệ niêm mạc ruột, chất tinh dầu có tính kháng khuẩn cao nhưng không gây hại cho những vi khuẩn có ích cư trú trong ống tiêu hóa. Vì vậy lá và nụ vối kiện tỳ giúp ăn ngon, tiêu hóa tốt, chữa bệnh đại tràng mãn, chữa viêm gan, vàng da và bỏng.
Quên đi nỗi lo tiểu đường
Qua nghiên cứu của Viện Đông y cho thấy, nụ vối và lá vối có tác dụng kháng sinh đối với nhiều loại vi khuẩn Gram dương và Gram âm. Trong đó có Streptococcus (hemolytic và staman) (vi khuẩn gây ra nhiễm trùng). Tụ cầu khuẩn Staphylococcus và khuẩn phế cầu Pneumococcus, Salmonella (vi khuẩn làm cho thức ăn trở thành độc), Bacillus (khuẩn hình que), Subtilisin (enzim có thể phá vỡ protein và peptide, được chiết xuất từ vi khuẩn). Không gây độc đối với cơ thể.
Do vậy, lá vối tươi hoặc khô sắc đặc được xem như là một loại thuốc sát khuẩn trị bệnh ngoài da như ghẻ lở, loét ngoài da, mụn nhọt, chốc đầu…
Các kết quả được tiến hành trong phòng thí nghiệm cho thấy nụ vối có khả năng triệt tiêu các gốc tự do chống oxi hóa mạnh. Khả năng chống oxi hóa (antioxidants) của nụ vối đã làm giảm sự hình thành đục thủy tinh thể, bảo vệ sự tổn thương tế bào tuyến tụy, phục hồi các men chống oxy hóa trong cơ thể.
Đề tài hợp tác nghiên cứu giữa Viện Dinh dưỡng quốc gia và Đại học Phụ nữ Nhật Bản còn phát hiện nụ vối có hàm lượng polyphenol cao tương đương với 128mg catechin/g trọng lượng khô và hoạt chất ức chế men alpha-glucosidase nên có khả năng hạn chế tăng đường huyết sau ăn, hỗ trợ ổn định đường huyết, giảm rối loạn lipid máu, có thể hỗ trợ phòng và điều trị bệnh tiểu đường với các biến chứng của nó.
Hỗ trợ điều trị gout
Tác dụng của lá và nụ vối giúp tiêu hóa thức ăn, nhất là thức ăn có nhiều dầu mỡ, giảm béo, lợi tiểu tiêu độc. Đối với bênh nhân gout do ăn uống nhiều chất béo ngọt, ứ đọng nhiều chất uric; mặt khác do hệ thống tiêu hóa và thận bài tiết đào thải không tốt dẫn đến uric ứ đọng ở các khớp gây nên tình trạng sưng, nóng, đỏ, đau.
Do vậy, nếu dùng thường xuyên lá và nụ vối có tác dụng hỗ trợ tiêu tích, làm tan các chất uric đào thải ra ngoài nên góp phần trong phòng ngừa, điều trị bệnh gout. Tuy nhiên, dùng lá và nụ vối sẽ hỗ trợ phần nào cho bệnh nhân gout nhưng không chữa hoàn toàn vì gout do nhiều nguyên nhân. Người bệnh cần có chế độ ăn uống và luyện tập hợp lý.
Lá vối ủ uống thơm ngon hơn nhưng để làm thuốc nên dùng lá tươi hoặc lá phơi khô là được. Dùng nước vối sau bữa ăn, có thể thay nước uống hàng ngày mà không lo có tác dụng phụ. Tuy nhiên, những người quá gầy, sức khỏe suy nhược thì không nên dùng lá và nụ vối.
Tác dụng của nước vối đối với mẹ bầu
1. Tốt cho hệ tiêu hóa mẹ bầu
Theo Đông y, lá vối có tác dụng kiện tỳ, giúp tăng cảm giác ngon miệng và kích thích hệ tiêu hóa hoạt động. Chất đắng có trong thành phần thúc đẩy quá trình tiết dịch tiêu hóa, trong khi đó tanin lại giúp bảo vệ niêm mạc ruột,…
Chế độ ăn uống cho bà bầu: Món nào tốt cho hệ tiêu hóa?
Chế độ ăn uống cho bà bầu: Món nào tốt cho hệ tiêu hóa?
Dinh dưỡng khi mang thai cực kỳ quan trọng, nhưng ăn nhiều mà hấp thụ chẳng bao nhiêu hóa ra lại công cốc. Vì vậy, mẹ bầu lúc nào cũng phải chăm sóc hệ tiêu hóa để duy trì sức khỏe bản thân, đồng thời giúp bé cưng trong bụng phát triển toàn diện nhất.
2. Ngăn ngừa tiểu đường thai kỳ
Chứa hàm lượng polyphenol cao, khoảng 128mg/gram trọng lượng khô, và hoạt chất ức chế alpha-glucosidase, nụ vối có khả năng hạn chế tăng đường huyết sau khi ăn. Đồng thời, còn giúp ổn định đường huyết, giảm lipid máu, phòng ngừa những biến chứng nguy hiểm của bệnh tiểu đường.
3. Chống ô-xy hóa cho cơ thể
Rất nhiều nghiên cứu kết luận rằng nụ vối có khả năng tiêu diệt các gốc tự do, chống ô-xy hóa, từ đó giảm sự hình thành đục thủy tinh thể, bảo vệ sự tổn thương tế bào tuyến tụy, đồng thời phục hồi các men chống ô-xy hóa trong cơ thể.
4. Thanh lọc cơ thể
Uống nước vối, đặc biệt vào mùa nóng, sẽ giúp thanh lọc, giải độc cho cơ thể nhanh chóng. Nước vối cung cấp một lượng lớn muối khoáng và vitamin cần thiết để phục hồi năng lượng bị mất do hoạt động, làm việc. Nhờ công hiệu giải nhiệt này, nước vối còn làm mát cơ thể, lợi tiểu và đào thải độc tố qua đường tiết niệu.
5. Sát khuẩn cho làn da từ trong ra ngoài
Uống nước lá vối hằng ngày sẽ giúp da dẻ mẹ bầu thêm mịn màng, sạch mụn, đặc biệt thích hợp với làn da nhờn, da hỗn hợp hoặc nhiều mụn. Ngoài ra, dùng nước lá vối để tắm và gội đầu cũng rất tốt nhờ tính sát khuẩn của loại lá này.
6. Bà bầu uống nước vối thế nào là đúng cách?
Lá vối khô rửa sạch cho vào ấm, cho nước lạnh vào đun đến sôi rồi uống nóng hoặc uống lạnh. Nụ vối cũng được đun trong nước đến khi sôi hoặc hãm trong nước sôi như cách hãm trà xanh. Nước vối từ lá khô có màu đỏ nâu nhạt, còn hãm từ lá tươi có màu xanh như nước trà xanh. Khi uống nước vối có vị đắng nhẹ, hơi ngọt, hương thơm ngai ngái.
Bài thuốc chữa bệnh từ lá vối
Trị đau bụng đi ngoài
Lá vối 3 cái, vỏ ổi rộp 8g, núm quả chuối tiêu 10g. Cùng thái nhỏ phơi khô sắc với 400ml nước, còn 100ml chia 2 lần uống trong ngày, dùng liền 2 – 3 ngày.
Chữa đầy bụng, không tiêu
Vỏ thân cây vối 6 – 12g, sắc kỹ lấy nước đặc uống 2 lần trong ngày.
Hoặc nụ vối 10 – 15g, sắc lấy nước đặc uống 3 lần trong ngày.
Chữa lở ngứa, chốc đầu
Lấy lá vối lượng vừa đủ nấu kỹ lấy nước để tắm, rửa nơi lở ngứa và gội đầu chữa chốc lở.
Giúp giảm mỡ máu
Nụ vối 15 – 20g, hãm lấy nước uống thay trà trong ngày hay nấu thành nước đặc chia 3 lần uống trong ngày. Cần uống thường xuyên mới hiệu nghiệm.
Hỗ trợ trị tiểu đường
Nụ vối 15 – 20g, sắc lấy nước chia 3 lần uống trong ngày hay hãm uống thay trà. Cần uống thường xuyên.
Những lưu ý khi uống nước vối
Bụng cồn cào, mệt mỏi vì cốc vối đặc
Cứ đến mùa hè, mọi người trong gia đình chị Nguyễn Thị Vân (ở Hà Nội) đều bị nóng trong, ngứa ngáy khắp người.
Nghe mọi người mách, chị Vân mua cả bao tải lá vối về đun uống dần.
Để giúp thanh nhiệt, giải độc, mỗi ngày chị Vân đều uống từ 3 - 4 cốc nước vối. Bình thường chị uống nước vối sau khi ăn thấy rất dễ chịu vì giúp tiêu hóa.
Nhưng cũng có vài lần sau những giờ làm việc mệt mỏi, bụng đang đói lại quá khát, chị uống vội cốc nước vối thì thấy bụng cồn cào, mệt mỏi, chân tay rã rời như tụt huyết áp.
Không chỉ chị mà chồng chị cũng có cảm giác này khi uống nước vối lúc đói.
Lương y đa khoa Bùi Đắc Sáng - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ, Hội Đông y Việt Nam cho biết, nước vối có công hiệu giải nhiệt rất hiệu quả trong những ngày hè nóng nực.
Nó có thể làm mát cơ thể và rất lợi tiểu nên giúp đào thải các độc chất trong cơ thể qua đường tiết niệu.
Trong y học cổ truyền, vối vị đắng, chát, tính mát. Nó có tác dụng thanh nhiệt, giải biểu, sát trùng, hạ khí, tiêu đờm.
Lá và nụ vối từ lâu đã được nhân dân ta nấu nước để uống vừa thơm, vừa tiêu thực, kích thích tiêu hóa, tán thũng, chỉ huyết, sinh cơ.
Về hiện tượng mọi người uống nước vối khi đói bụng thường hay bị cồn cào là do nước vối có tác dụng thúc đẩy tiêu hóa, chống đầy bụng, ăn ngon miệng... vì tác dụng này nên uống khi đói sẽ làm nhu động ruột hoạt động nhiều, gây cảm giác thèm ăn, mệt mỏi, sa sầm mặt mày, mất năng lượng.
Bởi vậy, ngoài tác dụng của nước vối, người dùng cần lượng thể trạng, sức khỏe để uống sao cho có hiệu quả nhất.
Ngoài ra, mọi người cũng nên sử dụng lá và nụ vối khô thay vì thói quen dùng lá vối tươi như nhiều gia đình hiện nay.
Việc dùng lá vối tươi có các tác nhân kháng viêm và kháng khuẩn rất mạnh có thể dẫn tới tình trạng hao huyết và tiêu diệt những vi khuẩn có lợi.
Bất cứ loại thảo dược hay thuốc bổ nào thì việc lạm dụng cũng gây ra những hệ quả nhất định. Uống quá nhiều chè lá vối và nụ vối đôi khi còn gây rối loạn tiêu hóa.
Chỉ nên uống 1 ấm hoặc 1 ly lá vối một ngày
Lương y đa khoa Bùi Đắc Sáng cho biết, cây vối hay còn gọi là hậu phác có tên khoa học là Cleistocalyx operculatus, thuộc họ Sim (Myrtaceae) có nhiều bộ phận được dùng tốt là vỏ thân, lá, nụ.
Trong lá vối có saponin, rất ít tanin, vết ancaloit (thuộc nhóm indolic) gần gũi với cafein và 4% tinh dầu bay hơi, mùi thơm dễ chịu.
Các bộ phận khác của cây còn chứa các sterol, các chất béo, tanin catechic và gallic. Lá và nụ chứa acid triterpenic.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, trong lá và nụ vối đều có tính kháng sinh đối với một số vi trùng Gram+ và Gram- ở tất cả các giai đoạn phát triển.
Chất kháng sinh (kháng khuẩn) thường tập trung cao nhất ở lá vào mùa Đông.
Hoạt chất kháng sinh tan trong nước, các dung môi hữu cơ, vững bền với nhiệt độ và ở các môi trường có độ Ph từ 2 - 9.
Chúng có tác dụng mạnh nhất đối với Streptococus (hemolytic và staman), sau đến vi trùng bạch hầu và Staphyllococcus và Prieumococcus. Hoàn toàn không có độc đối với cơ thể người.
“Nói chung uống trong nên dùng nụ lá khô, bôi rửa ngoài nên dùng tươi.
Lá vối tươi hay khô sắc đặc được xem có tính chất sát trùng để rửa những mụn nhọt, lở loét, ghẻ, ngứa. Lá vối tươi rất ngái vì có nhiều chất diệp lục nên phải ủ để phá hủy chất này.
Dùng nguyên liệu khô thì phải bảo quản tốt, vì nếu nhiễm nấm rất dễ gặp các độc tố nấm mycotoxin sinh bệnh”, lương y Bùi Đắc Sáng cho hay.
Theo GS.TS Nguyễn Lân Dũng, Hội các ngành sinh học Việt Nam, lá vối được coi là cứu tinh với những người bị bệnh gout.
Tác dụng của lá và nụ vối giúp tiêu hóa thức ăn, nhất là thức ăn có nhiều dầu mỡ, giảm béo, lợi tiểu tiêu độc.
Đối với bệnh nhân gout do ăn uống nhiều chất béo ngọt, ứ đọng nhiều chất uric; mặt khác do hệ thống tiêu hóa và thận bài tiết đào thải không tốt dẫn đến uric ứ đọng ở các khớp gây nên tình trạng sưng, nóng, đỏ, đau.
Do vậy dùng thường xuyên lá và nụ vối có tác dụng hỗ trợ tiêu tích, làm tan các chất uric đào thải ra ngoài nên góp phần trong phòng ngừa, điều trị bệnh gout.
Mọi người có thể dùng lá hoặc nụ vối với liều lượng khoảng 1 ấm nước lá vối/1 ngày hoặc một ly nước lá vối/1 ngày là được.
Không nên uống nhiều quá, sẽ không tốt cho hệ bài tiết.
Tốt nhất không nên uống nước vối quá nhiều sau khi ăn có thể gây cản trở hấp thu dưỡng chất, nếu pha loãng thì không ảnh hưởng đến sức khỏe.
Hãm lấy nước uống thay trà trong ngày kết hợp với chế độ ăn uống và luyện tập phù hợp.