Cách sơ cứu khi nạn nhân bị đuối nước, ngạt nước
Hiện nay đang vào mùa mưa bão, lũ lụt có thể xảy ra ở một số địa phương với nhiều trường hợp bị đuối nước dẫn đến tử vong nếu không có các biện pháp thực hiện cứu ngạt nạn nhân có hiệu quả.
Ngoài tai nạn đuối nước do lũ lụt, các tai nạn do chìm đắm ô tô, tàu thuyền… làm nạn nhân bị đuối nước cũng cần được quan tâm xử trí cấp cứu.
Đuối nước và thời điểm vàng sơ cứu
Đuối nước là một dạng của ngạt, do nước bị hít vào phổi, hoặc tắc đường thở do co thắt thanh quản khi nạn nhân ở trong nước. Đây là một tai nạn hay gặp, xảy ra trong khi bơi, đi thuyền và trong các hoạt động dưới nước. Tuy nhiên, cũng có thể xảy ra tại nhà như trong bồn nước, chum vại, rãnh nước,... Khi bị ngạt nước, nạn nhân bị ngừng thở, tim đập chậm lại do phản xạ. Tình trạng ngừng thở tiếp tục dẫn đến thiếu ôxy máu, gây tăng nhịp tim, huyết áp. Nếu ngừng thở tiếp tục kéo dài trong khoảng từ 20 giây đến 2 - 5 phút (tùy thuộc từng nạn nhân) thì đạt đến ngưỡng và nhịp thở lại xuất hiện khiến cho nước bị hít vào gây co thắt thanh quản tức thì, xuất hiện cơn ngừng thở lần 2, sau đó là các nhịp thở bắt buộc khiến cho nước, dị vật bị hít vào phổi. Hậu quả là nhịp tim chậm dần lại, rối loạn nhịp, ngừng tim và tử vong.
Để cứu sống nạn nhân ngạt nước phải ngăn chặn kịp thời các tiến trình trên, tốt nhất là ngay từ khi có cơn ngừng thở đầu tiên tức là trong vòng 1- 4 phút đầu tiên khi bị chìm trong nước, đồng thời xử lý tốt các chấn thương kèm theo (đặc biệt là chấn thương đầu cổ và cột sống).
Nguyên tắc cấp cứu là tại chỗ
Nguyên tắc này cần khẩn trương, đúng phương pháp với mục đích cấp cứu là giải phóng đường thở và cung cấp ôxy cho nạn nhân. Do vậy việc làm đầu tiên cần đưa nạn nhân ra khỏi nước:
Nếu nạn nhân còn tỉnh giãy giụa dưới nước, ném cho nạn nhân một cái phao, một khúc gỗ, hoặc một sợi dây để giúp họ lên bờ. Không nên nhảy xuống nước nếu không biết bơi, hoặc không được huấn luyện cách đưa người đuối nước còn tỉnh lên bờ. Vì nạn nhân lúc này trong tình trạng hoảng loạn, dễ níu chặt lấy bất cứ thứ gì với được, kể cả người cứu nạn. Khi cấp cứu nạn nhân ngay ở dưới nước cần phải nâng đầu nạn nhân nhô lên khỏi mặt nước, có động tác để giúp cho nạn nhân trấn tĩnh và thở.
Nếu nạn nhân bất tỉnh dưới nước (chỉ xuống cứu khi người cứu biết bơi). Nếu không thì gọi người hỗ trợ hoặc dùng thuyền nếu có để ra cứu.
Ngay sau khi đưa được nạn nhân vào bờ, cần tiến hành cấp cứu tại chỗ. Đặt nạn nhân ở tư thế nằm ngửa trên mặt phẳng cứng. Nếu bệnh nhân tím tái, không thể tự thở, tim ngừng đập (sờ mạch không có) và không có bất cứ phản xạ nào thì phải ấn tim ngoài lồng ngực. Dùng hai tay chồng lên nhau đặt ngay vào vị trí một nửa dưới xương ức và ấn tim với tần số ép khoảng 100 lần/1 phút, đồng thời phải khai thông đường thở bằng cách dùng gạc hay khăn vải móc đờm dãi, dị vật khỏi miệng nạn nhân và hà hơi thổi ngạt, hô hấp nhân tạo với phương pháp miệng thổi miệng cho nạn nhân.
Nếu chỉ có một người tiến hành sơ cấp cứu, thì ấn tim ngoài lồng ngực 15 - 30 nhịp, sau đó hà hơi thổi ngạt 2 lần và tiếp tục lặp lại việc ấn tim ngoài lồng ngực với chu kỳ 15 - 30 lần ấn tim, 2 lần hà hơi thổi ngạt. Nếu có hai người cấp cứu thì một người ấn tim ngoài lồng ngực, một người hà hơi thổi ngạt, kiên trì thực hiện cho đến khi nạn nhân hồi tỉnh trở lại hoặc cho đến khi nạn nhân được đưa đến cơ sở y tế gần nhất.
Cảnh giác phù phổi cấp sau khi đuối nước
Sau sơ cứu ban đầu người bị đuối nước đã tỉnh lại, cần được đưa đến cơ sở y tế để kiểm tra, mục đích xem nạn nhân có bị phù phổi cấp sau khi đuối nước, hay còn được gọi là “chết đuối trên cạn” hay không.
Một người đã hít phải nước thì có thể có các dấu hiệu của phù phổi cấp như: Khó thở, đau ngực hoặc ho; thay đổi đột ngột hành vi, người mệt mỏi,... những dấu hiệu này không dễ dàng phát hiện, đặc biệt ở trẻ nhỏ mà bình thường chúng có thể khó chịu. Nếu để lâu, nguy cơ tử vong sẽ cao nếu không được cấp cứu và điều trị kịp thời.
Những sai lầm cần tránh
Nhiều người thường có thói quen dốc ngược nạn nhân, vác lên vai rồi chạy, đây là hành động hoàn toàn sai vì thứ nhất, nó làm mất thời gian quý giá để hô hấp nhân tạo cứu sống bệnh nhân. Thứ 2 là khi ngạt nước thực ra nước ở trong phổi không nhiều như mọi người nghĩ, nó sẽ được tống ra ngoài khi ta hô hấp nhân tạo, ép tim ngoài lồng ngực và khi bệnh nhân thở trở lại.
Không hô hấp nhân tạo và ép tim ngoài lồng ngực khi vận chuyển tới bệnh viện sẽ làm mất thời gian cứu nạn nhân, gây ra di chứng não sau này nếu bệnh nhân còn sống. Điều này là do thiếu ôxy ở các tổ chức trong một thời gian dài, đặc biệt là não.
Bệnh lý ngạt thở cấp tính do đuối nước
Có thể nói rằng trạng thái ngạt thở cấp tính do nước tràn ngập vào đường hô hấp gây nên ngập lụt ở các phế nang của phổi. Đường hô hấp bị tắc nghẽn do nước tràn ngập; màng phế nang, màng mao mạch bị tiếp xúc trực tiếp với nước gây ra tổn thương tại các màng này dẫn đến tình trạng phù phổi cấp.
Nạn nhân đuối nước bị ngạt thở cấp tính sẽ tạo nên hậu quả là không có khí oxy cung cấp cho các mô tế bào trong toàn bộ cơ thể; trong đó mô tế bào não rất nhạy cảm nếu không có khí oxy cung cấp làm cho tế bào não bị phù cấp tính và tổn thương nặng. Khi nạn nhân đuối nước không được xử trí cứu nạn và cứu đuối kịp thời sẽ bị ngừng tim và tử vong. Thực tế ghi nhận tình trạng đuối nước ướt với đường hô hấp bị ngập nước nặng thường hay gặp, chiếm tỉ lệ từ 85 – 90% các trường hợp bị đuối nước. Sau khi nạn nhân té ngã xuống nước, ngay lúc phần đầu của nạn nhân bị chìm ngập trong nước sẽ có phản xạ ngừng thở và khoảng 2 phút sau đó phải hít thở vào; nước đã tràn ngập vào mũi miệng nên dù nạn nhân cố gắng hít thở sâu vào đều hoàn toàn vô hiệu và xuất hiện các cơn co cơ, nôn mửa… Tại mũi, miệng của nạn nhân ứ đầy bọt nước và chất nôn; mất các phản xạ và sau từ 2 – 4 phút sẽ dẫn đến tử vong. Tình trạng đuối nước khô xuất hiện sự co thắt thanh quản sau khi phần đầu của nạn nhân chìm ngập trong nước và trạng thái ngạt thở cấp tính dẫn đến sự thiếu khí oxy ở các mô tế bào của toàn bộ cơ thể, sau từ 2 – 3 phút cũng sẽ dẫn đến tử vong.
Các bệnh lý khác ngoài ngạt thở cấp tính
Nạn nhân bị đuối nước ngoài hội chứng ngạt thở cấp tính còn có những biểu hiện bệnh lý khác như: thân nhiệt hạ, toan chuyển hóa và một số thương tổn quan trọng.
Tình trạng thân nhiệt hạ phụ thuộc vào nhiệt độ của nước và thời gian nạn nhân ngâm cơ thể trong nước cho đến khi được cứu vớt lên. Thông thường nhiệt độ nước ở sông, hồ từ 24 – 26oC; mùa đông có thể xuống đến dưới 20oC. Vì vậy khi thân nhiệt hạ xuống ở mức 36oC nạn nhân cảm thấy lạnh, rét run, nếu tiếp tục xuống ở mức 33oC là mức giới hạn thì nhịp tim đập không đều; nếu thân nhiệt xuống dưới 29oC là mức nguy hiểm, ở mức 28oC sẽ xuất hiện bệnh lý rung tim; với mức thân nhiệt từ 24 – 26oC thường sẽ dẫn đến tử vong. Do đó khi cứu nạn, các nhân viên cứu hộ và nhân viên y tế cần chú ý việc ủ ấm cho nạn nhân để phục hồi thân nhiệt trở lại ở mức bình thường. Nên nhớ việc xác định thân nhiệt của nạn nhân phải dùng nhiệt kế để đo cụ thể.
Tình trạng toan chuyển hóa xảy ra do thiếu khí oxy ở mô tế bào, làm ứ đọng acid lactic do rối loạn chất điện giải và bị nôn mửa nhiều. Ngoài ra có thể thấy tình trạng tán huyết; tăng kali, natri, chlorua máu; tăng thể tích máu.
Đối với những nạn nhân do bị thiên tai như bão, lốc… trong những vụ tai nạn đắm chìm tàu thuyền lênh đênh trên biển, hồ, sông, suối bị trôi dạt nhiều giờ, nhiều ngày trong nước phải vật lộn với sóng to, gió lớn với tình trạng chìm đắm kéo dài cho đến khi được đội tìm kiếm, cứu nạn, cứu đắm, cứu đuối phát hiện vớt lên thường bị đói khát như: trường hợp bị chìm đắm trên biển khơi đều có hiện tượng mệt mỏi, suy nhược cơ thể; bị stress do lo sợ nên tinh thần suy sụp, ức chế, có khi bị câm tạm thời. Thực tế ghi nhận có nạn nhân bị xuất huyết tiêu hóa do loét cấp tính niêm mạc ống tiêu hóa với cơ chế gây loét vì stress. Ngoài ra, có nạn nhân còn bị nhiều vết thương do va đập khi phải đối mặt với sóng to, trôi dạt và có triệu chứng phù cứng xuất hiện tại vùng bị va đạp; đồng thời cũng có nạn nhân bị cá biển cắn đớp khi lênh đênh trên biển nếu ôm được các vật nổi như tấm gỗ, bè phao…
Công tác chăm sóc y tế khẩn cấp
Khi đối mặt với những nạn nhân bị đuối nước cần phải triển khai thực hiện ngay quy trình công tác nghiệp vụ chuyên môn để khám xét nạn nhân và phân loại nạn nhân.
Việc khám xét nạn nhân phải tiến hành toàn diện từ đầu đến chân để phát hiện các tổn thương cần xử trí khẩn cấp. Cần ghi đầy đủ những kết quả khám nghiệm vào tờ trình của nạn nhân để có cơ sở theo dõi sau đó.
Việc phân loại nạn nhân rất cần thiết để xác định các mức độ giúp cho việc xử trí phù hợp. Nạn nhân được phân loại thành 4 mức độ gồm rất nặng, nặng, vừa và nhẹ với các đặc điểm sau đây:
Mức độ rất nặng là mức nguy kịch dẫn tới hôn mê sâu hoặc bất tĩnh, vật vã, kích động, thở chậm, huyết áp hạ thấp, thở rất yếu hay ngừng thở, mạch ở động mạch cảnh và động mạch đùi đập rất yếu, tim đập không đều nhịp; da rất lạnh, màu da tím đậm hay nhợt nhạt, trắng bệch, có những vết màu sẫm. Nếu nạn nhân không được cấp cứu; khẩn trương hồi sức hô hấp, tuần hoàn một cách kịp thời và có hiệu quả sẽ dẫn đến tình trạng mất não do não không được cung cấp khí oxy, bị ngừng tim, toan chuyển hóa nặng và tử vong là điều không thể tránh khỏi. Các dấu hiện xác định nạn nhân tử vong căn cứ vào tình trạng nhãn cầu mềm, da có mảng màu tím, nhiệt độ cơ thể hạ thấp dưới 25oC; toàn bộ cơ thể bị cứng đờ, lạnh toát.
Mức độ nặng dẫn đến tình trạng thiếu khí oxy ở mô tế bào làm cho tinh thần bị lú lẫn, u ám, có cơn kích động, thở nhanh, thở gấp với những thì ngừng thở; da bị tím sẫm; mạch ngoại vi tuy đập yếu nhưng vẫn còn bắt được, mạch ở động mạch cảnh và động mạch đùi còn đập rõ; tim đập nhanh, huyết áp hạ thấp, thân nhiệt hạ.
Mức độ vừa dẫn đến tình trạng thiếu khí oxy ở mô tế bào ở mức độ vừa. Nạn nhân tỉnh táo, minh mẫn nhưng tinh thần thể hiện sự lo âu, thở nhanh và nông, đường hô hấp tuy thông thương nhưng còn chất đờm dịch ứ đọng làm cản trở sự lưu thông không khí; màu da tím; trạng thái tuần hoàn như mạch đập, nhịp tim, huyết áp tương đối ổn định; thân nhiệt hạ, có trạng thái mệt mỏi, suy nhược.
Mức độ nhẹ với tình hình nạn nhân tỉnh táo, minh mẫn, thở đều nhịp và rõ; không còn ùn tắc dịch tiết đường hô hấp, trạng thái tuần hoàn như mạch đập, nhịp tim, huyết áp ổn định; nạn nhân mệt mỏi, da lạnh, còn cơn rét run vì nạn nhân chưa thật sự phục hồi sau cứu đuối nhưng nhìn chung đã ở trong trạng thái ổn định.
Sau khi phân loại với các mức độ như trên, cần tiến hành ngay việc cấp cứu khẩn cấp đối với các trường hợp ở mức độ rất nặng hay nguy kịch bằng các biện pháp như:
Tiếp tục kiểm tra việc thông khí đường hô hấp; nhanh chóng hút, móc, lấy các chất nôn, bùn đất gây nên sự tắc nghẽn; lau sạch mũi, miệng, họng. Đặt ống thông miệng hầu để lưu thông khí và giữ cho lưỡi không bị tụt ra phía sau và có tác dụng ngăn nạn nhân dùng răng cắn các ống xông, đồng thời vẫn bảo đảm được việc hút chất đờm dịch ở miệng hầu và luôn giữ cho miệng nạn nhân há mở. Không khí có thể lưu thông qua lòng ống hoặc qua các rãnh bên của ống. Ngoài ra, cũng có thể đặt ống thông mũi hầu để bảo đảm sự lưu thông khí tốt ở đường hô hấp. Việc chọn đặt ống thông miệng hầu hoặc ống thông mũi hầu tùy thuộc vào tình trạng co cứng cơ hàm của nạn nhân nặng hay nhẹ.
Cho thở khí oxy với trang thiết bị thông khí và máy thở oxy lưu động trong bộ cấp cứu hồi sức hô hấp xách tay. Đối với nạn nhân bị đuối nước ở mức độ vừa, còn tỉnh táo, minh mẫn thì cho thở oxy qua ống xông ở mũi. Đối với nạn nhân bị đuối nước ở mức độ nặng và rất nặng cần thực hiện việc thông khí và thở oxy qua mặt nạ hoặc bằng bộ cấp cứu hồi sức hô hấp xách tay; bóp bóng bằng tay và sau đó dùng hô hấp viện trợ bằng máy. Nên dùng thuốc an thần khi nạn nhân dẫy dụa, bị kích động để bảo đảm cho công tác hô hấp viện trợ.
Thực hiện công tác cấp cứu hồi sức tim mạch như ép tim ngoài lồng ngực ngay nếu nạn nhân ngừng tim cho đến khi tim đập trở lại, cho thuốc trợ tim mạch, truyền dịch cần thiết. Đối với nạn nhân bị đuối nước ở mức độ nặng và rất nặng biểu hiện bằng dấu hiệu huyết áp hạ thấp, thân nhiệt hạ… phải đặt bộ truyền tĩnh mạch; có thể truyền bổ sung dịch truyền bicarbonat khi cần.
Sau khi bổ sung đủ dịch truyền nếu nạn nhân có lượng nước tiểu giảm trong tình trạng thiểu niệu hoặc vô niệu thì cho thuốc lợi tiểu nhưng chú ý theo dõi để dự phòng tình trạng phù não. Đặt ống hút dịch dạ dày nếu nạn nhân bị trướng bụng do liệt dạ dày, ruột.
Cho thuốc kháng sinh và theo dõi biến chứng nhiễm khuẩn hô hấp khi bị ngạt do đuối nước ướt với một lượng nước tràn vào đường hô hấp.
Giữ ấm bằng cách đắp chăn ủ ấm cho nạn nhân, để nạn nhân ở tư thế hồi phục an toàn; khi nạn nhân có trạng thái tinh thần, da ấm, mạch, nhịp thở, huyết áp đã thật sự ổn định có thể cho ngồi dậy và đi lại bình thường.
TTƯT.BS. NGUYỄN VÕ HINH