Logo Bài Thuốc Quý

Bệnh sốt xuất huyết, triệu chứng và cách điều trị

01/01/2020 · Sức khỏe
Bệnh sốt xuất huyết là bệnh xảy ra phổ biến, đặc biệt là vào mùa mưa, bệnh sốt xuất huyết không lây trực tiếp từ người sang người mà lây qua muỗi. Dưới đây là cách nhận biết sốt xuất huyết, cách xử lý, điều trị bệnh, cách ăn uống để bệnh nhân hồi phục nhanh nhất.

Sốt xuất huyết nguy hiểm như thế nào?

Xuất huyết xảy ra quanh năm, đặc biệt vào mùa mưa, có thể bộc phát thành dịch đe doạ sinh mạng trẻ em và sức khỏe cộng đồng. Bệnh có thể trở nặng bất ngờ, gây tử vong cao. Bệnh chưa có thuốc trị đặc hiệu và thuốc phòng ngừa. Theo các bác sĩ đầu ngành, ở người lớn có hai dạng sốt xuất huyết: Dạng biểu hiện ra bên ngoài và dạng không biểu hiện ra bên ngoài (thường gặp nhất là xuất huyết tiêu hóa và xuất huyết não).

Sốt xuất huyết tiêu hóa (trong ruột) ở người lớn có biểu hiện ban đầu rất bình thường, chỉ sốt, ít ho, không sổ mũi, không nổi ban. Sau 1 hoặc 2 ngày, bệnh nhân sẽ đi tiêu ra máu nhưng không nhiều và bắt đầu có những hạt lấm tấm trên da, người xanh xao.

Sốt xuất huyết não cũng rất khó nhận biết vì biểu hiện ban đầu không rõ ràng, nhưng rất dễ gây tử vong. Ban đầu, người bệnh sốt, bị nhức đầu, ngay sau đó tay bị tê liệt, không thể cử động. Cuối cùng, người bệnh sẽ bị hôn mê rồi dẫn đến tử vong. “Đối với các trường hợp này, bác sĩ không thể cứu chữa kịp vì tiến triển bệnh quá nhanh”, bác sĩ Hiền nhận định.

Dạng sốt xuất huyết có biểu hiện bên ngoài ở người lớn cũng diễn biến bất thường và triệu chứng ồ ạt hơn ở trẻ em. Thời gian bị sốt cũng kéo dài hơn, khoảng 11-12 ngày thậm chí dài hơn (ở trẻ em chỉ 7 ngày). Sốt xuất huyết ở người lớn nguy hiểm nhất chính là lúc mạch huyết áp bị kẹt (bị tụt), từ đó bắt đầu sinh ra các biến chứng nguy hiểm như xuất huyết tiêu hóa, suy gan, đông máu. Tỷ lệ biến chứng ở sốt xuất huyết người lớn là khoảng 5%.

Muỗi Aedes truyền sốt xuất huyết

Muỗi Aedes là trung gian truyền bệnh sốt xuất huyết.

Những biểu hiện, triệu chứng của bệnh sốt xuất huyết

Khi thấy những dấu hiệu sau:

  • Sốt (nóng) cao 39-40 độ , đột ngột, liên tục trong 3-4 ngày liền.

Xuất huyết (chảy máu) thường ở nhiều dạng:

  • Xuất huyết dưới da: Làm lộ trên mặt da những chấm nhỏ màu đỏ, đốm đỏ hay vết bầm rải rác ở mặt trước hai cẳng chân và mặt trong cánh tay, bụng, đùi, mạng sườn. Phân biệt với vết muỗi cắn bằng cách căng da chung quanh chấm đỏ, nếu chúng vẫn còn là do xuất huyết, ngược lại nếu biến mất thì đó là vết muỗi cắn.
  • Chảy máu cam, chảy máu chân răng, nướu răng.
  • Ói hoặc đi cầu ra máu (nước ói màu nâu, phân lợn cợn như bã cà phê hoặc đỏ tươi).
  • Đau bụng.
  • Sốc là dấu hiệu nặng, thường xuất hiện từ ngày thứ 3-6 của bệnh, đặc biệt lúc trẻ đang sốt cao chuyển sang hết sốt và có thể xảy ra kể cả khi không thấy rõ dấu hiệu xuất huyết. Dấu hiệu sốc gồm:
  • Mệt, li bì hoặc vật vã
  • Chân tay lạnh
  • Tiểu ít
  • Có thể kèm theo ói hoặc đi cầu ra máu.

Thực tế điều trị bệnh cho thấy, nguyên nhân gây tử vong cao nhất ở bệnh sốt xuất huyết người lớn là tràn dịch màng phổi. Khi mới sốt, những bệnh nhân này đã yêu cầu cơ sở y tế tuyến dưới hoặc bác sĩ tư nhân truyền dịch, gây ứ nước trong cơ thể và dẫn đến tràn dịch màng phổi.

Dấu hiệu sốt xuất huyết ở da

Dấu hiệu sốt xuất huyết ở trẻ em.

Khi phát hiện đang mắc bệnh sốt xuất huyết cần phải làm gì?

Đối với sốt xuất huyết biểu hiện ra bên ngoài thì việc điều trị phải được thực hiện theo đúng phác đồ. Hiện nay đã có phác đồ điều trị sốt xuất huyết cho người lớn. Đây là phác đồ chuẩn được áp dụng cho tất cả các nước có sốt xuất huyết trên toàn thế giới. Theo đó, nếu mới có dấu hiệu sốt xuất huyết, người bệnh chỉ cần đến các cơ sở tuyến đầu để được hướng dẫn cách điều trị tại nhà mà chưa cần đến bệnh viện. Tất cả các cơ sở tuyến đầu đều đã được tập huấn đủ khả năng để xử lý những trường hợp ở cấp độ nhẹ.

Khi điều trị tại nhà (sốt xuất huyết cấp độ 1 và 2), người bệnh chỉ uống paracetamol để hạ sốt, ngoài ra không được dùng bất kỳ loại thuốc nào khác. Nên nghỉ ngơi, uống nhiều nước mát hoặc nước trái cây để giải nhiệt, tránh ăn những thức ăn khó tiêu. Sau 11 hoặc 12 ngày, nếu không có dấu hiệu biến chứng là bệnh đã khỏi. Để đề phòng xuất huyết não và xuất huyết tiêu hóa, khi có dấu hiệu nghi ngờ, nên đến cơ sở y tế ngay.

Đưa đi khám bệnh ngay. 

Nếu trường hợp nhẹ, có thể chăm sóc tại nhà như sau:

  • Nghỉ ngơi, tránh chạy nhảy, vận động mạnh.
  • Nên cho ăn các loại thức ăn dễ tiêu hóa: cháo, súp, sữa…
  • Cho uống nhiều nước hơn bình thường, có thể dùng nước chín để nguội, nước Oresol (nước biển khô, cách pha: 1 gói pha vào 1 lít nước, uống 100-150ml nước/kg cân nặng/ngày), nước cam vắt, nước chanh đường…
  • Hạ sốt với thuốc Paracetamol, lau nước ấm khi sốt cao.
  • Ngoài Paracetamol, không cho bệnh nhân uống các loại thuốc khác, đặc biệt 2 loại là aspirin và Ibuprofen (vì gây thêm xuất huyết dạ dày dữ dội, nguy hiểm đến tính mạng.), không cắt lễ hay cạo gió, không quấn kín hoặc mặc áo nhiều khi đang sốt, không cữ ăn, không nhịn uống.
  • Tuyệt đối không tự ý truyền dịch tại nhà khi bị sốt xuất huyết vì có thể dẫn đến phù nề, suy hô hấp và nguy hiểm đến tính mạng

Theo dõi bệnh và mang ngay đến bệnh viện khi thấy có các dấu hiệu trở nặng bất ngờ:

  • Mệt mỏi  nhiều hơn, vẻ âu lo bứt rứt, li bì hoặc vật vã
  • Tay chân lạnh, đau bụng nhiều hơn
  • Ói nhiều, da đổi màu bầm, môi tím lại.

Một số bài thuốc dân gian điều trị sốt xuất huyết

Bài 1:

Lá cúc tần 12 g, cây nhọ nồi 16 g, mã đề 16 g, củ sắn dây 20 g, trắc bách diệp (sao đen) 16 g, rau má 16 g, lá tre 16 g, gừng tươi 3 lát.

Nếu không có lá trắc bách diệp thay bằng lá sen sao đen 12 g hoặc kinh giới sao đen 12 g, không có củ sắn dây thay bằng lá dâu 16 g.

Cách dùng: Toàn bộ số thuốc trên rửa sạch thái nhỏ (trừ các thứ đã sao đen) cho vào ấm đổ 600 ml, đun sôi 30 phút rồi đổ vào phích uống ấm. Ngày uống 3 lần.

Bài 2:

Cỏ nhọ nồi 20 g, rễ cỏ tranh 20 g, sài đất 20 g, hoa hòe sao vàng 12 g, lá cối xay sao vàng 8 g, kim ngân (dùng cả hoa, lá, cuộng) 12 g, hạ khô thảo 12 g, gừng tươi 3 lát.

Nếu không có hạ khô thảo thay nằng lá bồ công anh 12 g.

Cách dùng: Toàn bộ số thuốc trên rửa sạch, trừ hoa hòe và lá cối xay đã sao. Tất cả cho vào ấm đổ 600 ml, đun sôi 30 phút, đổ vào phích giữ ấm, uống ngày 3 lần.

Liều lượng

Hai bài thuốc trên liều lượng chữa cho người lớn. Nếu là trẻ em, tùy theo độ tuổi, dưới 8 tuổi dùng 1/3 liều lượng, từ 8-14 tuổi dùng 1/2 liều. Sốt nhiều có thể tăng vị giảm sốt như cỏ nhọ nồi, sài đất, kim ngân, sắn dây, lá tre. Nếu chảy máu nhiều tăng các vị cầm máu và sao đen như trắc bách diệp, lá sen.

Cách phòng ngừa hiệu quả sốt xuất huyết

Mặc quần áo dài tay, ngủ mùng cả ban đêm lẫn ban ngày. Không ở nơi thiếu ánh sáng, ẩm thấp để tránh muỗi chích (đốt).

Thoa thuốc chống muỗi lên những vùng da lộ ra ngoài để bảo vệ mọi lúc, cả ngày lẫn đêm.

Đậy kín lu, vại, hồ, bể chứa nước, không tạo nơi cho muỗi đẻ và hàng tuần nên cọ rửa với bàn chải để trứng muỗi rơi ra; thả cá 7 màu diệt lăng quăng (bọ gậy).

Dọn dẹp nhà cửa ngăn nắp, sạch thoáng, không treo quần áo làm chỗ cho muối trú đậu, loại bỏ các vật chứa nước đọng (gáo dừa, lon, đồ hộp, ly, chén, chai lọ bể, vỏ xe…), thay nước bình bông mỗi ngày, đổ dầu hôi hoặc pha nhiều muối vào chén nước chống kiến chân tủ thức ăn để triệt nơi sinh sản của muỗi. Có thể dùng thuốc diệt muỗi hoặc nhang trừ muỗi.

Vì sao hàng năm dịch sốt xuất huyết tái đi tái lại? Chủ yếu là do sự phòng bệnh không tốt. Muỗi là loài động vật đông hạng nhất, có ở khắp nơi. Trong những ngôi nhà hiện đại, muỗi có thể đẻ trứng ở những nơi ít ngờ nhất: đất ẩm ban công, ống bơ đọng nước cũ, máng xối, hay bất cứ vũng nước đọng nhỏ nào.

Vì thế, diệt muỗi bằng phun thuốc là quan trọng, nhưng hay hơn nữa là tìm và loại bỏ những nơi có thể dành cho muỗi đẻ trứng.

Một ngôi nhà khô ráo thoáng đãng, không có nước tù, nước đọng, không có nơi ẩm ướt thường xuyên thì không có muỗi.

Không có muỗi, không có sốt xuất huyết, điều đó là chắc chắn.

Với người nhà bị sốt xuất huyết, thái độ xử trí đúng là: Đưa đi khám bệnh tại cơ sở y tế gần nhất. Tuân thủ đơn thuốc, uống nhiều nước, nhất là dung dịch điện giải, nước sinh tố. Ăn nhẹ, thường khuyên ăn cháo thịt nạc, ít mỡ dễ tiêu.

Nếu có các triệu chứng xấu như xuất huyết nhiều nơi, ồ ạt, vã mồ hôi lạnh, mêt mỏi quá mức hay ý thức u ám lơ mơ, nhất thiết phải đưa đi bệnh viện để cấp cứu.

Câu hỏi thường gặp về sốt xuất huyết

Sốt xuất huyết có lây không? Sốt xuất huyết lây qua đường nào?

Bệnh sốt xuất huyết không lây trực tiếp từ người sang người mà lây qua muỗi. Muỗi nhiễm virus trong môi trường sống hoặc qua người bị bệnh sau đó lây truyền sang cho người khác.

Virus phát triển trong cơ thể muỗi, qua tuyến nước bọt nó sẽ xâm nhập vào máu người khi muỗi đi hút máu (đốt, cắn).

Khi bị sốt xuất huyết kiêng gì?

Tránh ăn nhiều đồ gây khó tiêu, đầy bụng. Tránh ăn những đồ màu đỏ, nâu, đen để không bị nhầm lẫn dấu hiệu xuất huyết khi người bệnh bị nôn ói có màu xám, thâm đen bất thường.

Kiêng đồ ăn cay, đồ uống có cồn, cafein và thuốc lá.

Bị sốt xuất huyết có được tắm không?

Có nhưng cần tắm nhanh, tắm nước ấm, trong phòng kín gió để cơ thể được sạch sẽ. Tuy nhiên nếu người bị bệnh quá mệt không thể tự tắm thì nên được lau người mỗi ngày đến khi khỏe hẳn.

Bị sốt xuất huyết có cần phải kiêng gió không?

Không cần. Nhưng khi cơ thể đang suy yếu thì không nên ra gió lạnh để tránh bị cảm lạnh. Gió bình thường thì không sao cả.

Nghỉ ngơi trong nhà là điều bắt buộc nhưng thỉnh thoảng đi lại bên ngoài sẽ giúp cơ thể dần hồi phục nhanh hơn.

Bị sốt xuất huyết nên ăn gì tốt nhất?

Nên ăn đồ dễ tiêu, giàu dinh dưỡng như cháo, súp, hoa quả nghiền. Đặc biệt chú trọng đến vitamin C và sắt.

Ai dễ bị mắc sốt xuất huyết?

Môi trường sống có nhiều muỗi Aedes Aegypti

Sống trong khu vực hoặc đi du lịch đến nơi có muỗi Aedes Aegypti gây bệnh sốt xuất huyết sinh sống thì bạn có nguy cơ cao mắc bệnh khi bị muỗi đốt.

Đã bị nhiễm bệnh trước đây

Ai dễ mắc bệnh sốt xuất huyết? - Ảnh 2 8 lưu ý trước khi dùng Paracetamol hạ sốt cho trẻ Ai dễ mắc bệnh sốt xuất huyết? - Ảnh 3 Hội chứng dumping - biến chứng sau khi phẫu thuật dạ dày để giảm cân Ai dễ mắc bệnh sốt xuất huyết? - Ảnh 4 NÊN ĐỌC

Virus gây bệnh sốt xuất huyết có 4 chủng huyết thanh khác nhau là DEN-1, DEN-2, DEN-3 và DEN-4. Nếu một người đã nhiễm với chủng virus nào thì chỉ có khả năng tạo được miễn dịch suốt đời với chủng virus đó. Do vậy, mỗi người có thể sẽ mắc sốt xuất huyết 4 lần trong đời. Nếu mới mắc sốt xuất huyết lần đầu, người đó có thể nhiễm bệnh thêm 3 lần nữa bởi các chủng virus Dengue còn lại. Người mắc lại sốt xuất huyết dễ gặp các biến chứng nghiêm trọng.

Trẻ em

Bản tính hiếu động và ham chơi nên trẻ thích chơi ở những chỗ tối - là “địa bàn hoạt động” của muỗi, nên dễ bị muỗi tấn công. Mặt khác, do hoạt động thường xuyên nên ra nhiều mồ hôi hơn, khiến muỗi dễ phát hiện và đốt. Khi bị muỗi đốt, sức đề kháng của trẻ cũng yếu hơn người lớn nên trẻ dễ bị mắc bệnh hơn.

Người có hệ miễn dịch yếu

Bất cứ ai cũng có thể mắc bệnh sốt xuất huyết, nhưng những người có hệ miễn dịch yếu dễ mắc bệnh hơn.

Người có tiểu cầu thấp

Một trong những biến chứng nghiêm trọng của bệnh sốt xuất huyết là sự suy giảm số lượng tiểu cầu. Nếu có lượng tiểu cầu thấp thì bạn dễ gặp các biến chứng của bệnh sốt xuất huyết hơn. Bởi vậy, nếu bạn bị sốt cao trên 3 ngày thì nên đến bệnh viện xét nghiệm máu để kiểm tra xem mình có bị sốt xuất huyết hay không.

Người bệnh viêm gan mạn tính

Bệnh nhân viêm gan mạn tính thường có rối loạn chức năng đông máu, nên khi bị sốt xuất huyết các biểu hiện xuất huyết thường nặng hơn rất nhiều. Bệnh nhân thường bị xuất huyết đa phủ tạng, trên da thường là các mảng bầm tím lớn, nguy cơ tử vong rất cao do sốc giảm khối lượng tuần hoàn và tình trạng mất máu nặng.

Bệnh sốt xuất huyết ở mức độ nhẹ có thể quản lý theo dõi và điều trị tại nhà theo phác đồ. Nhưng ở những trường hợp cảnh báo trên, mặc dù bị nhẹ vẫn nên nhập viện điều trị để kịp thời xử lý khi có những diễn biến nặng nề xảy ra vì bệnh sốt xuất huyết rất khó tiên lượng và dự liệu những khả năng diễn biến của bệnh.

Một số lời khuyên của bác sĩ

Hiện nay, bệnh sốt xuất huyết chưa có vắc-xin để phòng bệnh và thuốc đặc hiệu để điều trị. Diễn biến lâm sàng với triệu chứng bệnh lý khá đa dạng và chuyển biến nhanh từ nhẹ sang nặng. Mức độ bệnh tiến triển từ sốt xuất huyết thông thường sang sốt xuất huyết nặng không lường trước được. Vì vậy, ngành y tế cùng phối hợp với cộng đồng người dân thực hiện công tác giám sát, phòng chống bệnh một cách chặt chẽ. Phòng bệnh chủ yếu là kiểm soát được hoạt động của muỗi truyền bệnh sốt xuất huyết như tránh muỗi đốt kể cả ban ngành; diệt bọ gậy muỗi, loăng quăng muỗi và muỗi trưởng thành bằng tất cả các biện pháp hiệu quả, khả thi; đồng thời thường xuyên vệ sinh cảnh quan, môi trường sống để loại bỏ các ổ chứa nước đọng là điểm sinh sản của muỗi ở trong nhà và ngoài nhà. Khi phát hiện các dấu hiệu nghi ngờ mắc bệnh sốt xuất huyết cần đến ngay cơ sở y tế để được khám, chẩn đoán và điều trị phù hợp; mọi sự chậm trễ có thể dẫn đến nguy cơ tử vong khi có những biến chứng trầm trọng xảy ra. Bệnh nhân chỉ được xuất viện về nhà khi hết sốt trong vòng 2 ngày, tỉnh táo; mạch, huyết áp bình thường; số lượng tiểu cầu máu phải trên 50.000/mm3 máu. 


Thông tin tham khảo thêm.

Sốt xuất huyết là gì?

Sốt xuất huyết (Dengue fever) là một nhóm các bệnh do một trong 4 họ virus sau : Arenavirus, Filoviridae, Bunyaviridae và Flavivirus.

Đây là bệnh sốt cao có xuất huyết, được truyền qua muỗi, chủ yếu là muỗi vằn.

Khi muỗi đã nhiễm virus, nó có thể truyền bệnh suốt đời. Vì vậy nó có thể truyền cho rất nhiều người.

Bệnh sốt xuất huyết có thể nhẹ , nặng hoặc thậm chí gây tử vong.

Người lớn bị sốt xuất huyết dễ tử vong hơn so với trẻ em, nhưng trẻ em lại lâu hồi phục và khó điều trị hơn so với người lớn.

Nếu bạn đã từng bị sốt xuất huyết thì sẽ có kháng thể phòng ngừa bệnh do loại virus đó. Bạn cũng có thể bị nhiễm các virus sốt xuất huyết khác.

Tại Việt Nam, bệnh sốt xuất huyết đang ngày càng gia tăng và thường xảy ra vào mùa hè.

Sốt xuất huyết hay chính xác hơn là sốt xuất huyết do virus là một nhóm các bệnh do một số họ virus sau: Arenavirus, Filoviridae, Bunyaviridae và Flavivirus. Một số loài virus có thể gây bệnh nhẹ như sốt Nephropathia Scandinavia, trong khi đó một số loài khác có thể gây bệnh tương đối nặng, thậm chí có thể gây tử vong, chẳng hạn như sốt Lassa, virus Marburg, Bệnh virus Ebola, sốt xuất huyết Bolivia, Hantavirus (sốt xuất huyết Triều Tiên), sốt xuất huyết Crimea-Congo, và sốt xuất huyết Dengue. Đây là bệnh sốt cao có xuất huyết, có thể quy vào các chứng ôn dịch, thời độc, thử táo dịch hoặc thấp nhiệt. Sốt xuất huyết được truyền qua muỗi, đặc biệt là muỗi vằn.

Ở Việt Nam, tỷ lệ người trên 15 tuổi mắc sốt xuất huyết tại các tỉnh phía Nam đã tăng từ 14% năm 1991 lên đến 30% năm 2004, và đang có xu hướng tăng lên trong mùa dịch năm nay. Theo các bác sĩ chuyên ngành, đây là điều rất đáng lo ngại vì người lớn bị sốt xuất huyết dễ tử vong hơn trẻ em.

Sốt xuất huyết dengue (dengue hemorrhagic fever, DHF hay Sốt dengue (dengue fever, DF, đọc là đăng-gi) , tại Việt Nam thường được gọi chung là bệnh sốt xuất huyết, có biểu hiện nặng nhất của bệnh là hội chứng sốc dengue (dengue shock syndrome, DSS) được gây ra do Dengue virus (chi Flavivirus, họ Flaviviridae). Virus này có 4 chủng huyết thanh khác nhau là DEN-1, DEN-2, DEN-3 và DEN-4. Bệnh nhân nhiễm với chủng virus nào thì chỉ có khả năng tạo nên miễn dịch suốt đời với chủng virus đó mà thôi. Chính vì vậy mà những người sống trong vùng lưu hành dịch dengue có thể mắc bệnh sốt xuất huyết nhiều hơn một lần trong đời. Sốt dengue và sốt xuất huyết dengue chủ yếu là bệnh ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nhiễm virus dengue gây nên triệu chứng lâm sàng khác nhau tùy từng cá thể. Bệnh có thể chỉ biểu hiện nhưmột hội chứng nhiễm virus không đặc hiệu hoặc bệnh lý xuất huyết trầm trọng và đưa đến tử vong . Trong bài này, thuật ngữ dengue được sử dụng để chỉ chung cho ba thể bệnh nêu trên. Khi nói đến từng thể riêng biệt thì tên chính xác của thể bệnh đó sẽ được sử dụng.

Có thể nói dengue là một bệnh do virus lây truyền do muỗi thường gặp nhất ở người. Trong những năm gần đây bệnh đã trở thành mối quan ngại lớn đối với sức khỏe cộng đồng trên bình diện quốc tế. Trên toàn thế giới có khoảng 2,5 tỷ người hiện đang sống trong vùng có lưu hành bệnh. Sự lan tràn về mặt địa lý của cả véc tơ truyền bệnh (muỗi) và virus đã đưa đến sự tăng cao tỷ lệ bệnh trong vòng 25 năm qua cũng như khả năng xuất hiện dịch do nhiều chủng huyết thanh khác nhau ở các đô thị trong vùng nhiệt đới.

Diễn biến các giai đoạn của bệnh sốt xuất huyết

Bệnh thường khởi phát một cách đột ngột và tiến triển qua ba giai đoạn là giai đoạn sốt, giai đoạn nguy hiểm và giai đoạn hồi phục.

Giai đoạn nguy hiểm thường xảy ra từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 7 sau khi bị sốt. Người bệnh có thể còn sốt hoặc đã giảm sốt và có các biểu hiện như thoát huyết tương do tăng tính thấm thành mạch thường kéo dài từ 24 - 48 giờ; tràn dịch màng phổi, mô kẽ, màng bụng, phù nề mi mắt, gan to và có thể đau. Nếu bị thoát huyết tương nhiều sẽ dẫn đến tình trạng sốc với các biểu hiện như vật vã, bứt rứt hoặc li bì, lạnh các đầu chi, da lạnh ẩm, mạch nhanh, nhỏ; huyết áp bị kẹt với hiệu số huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu bằng hoặc dưới 20mmHg; huyết áp bị tụt hoặc không đo được; lượng nước tiểu ít. 

Triệu chứng xuất huyết có thể xảy ra ở dưới da, niêm mạc và nội tạng. Dấu hiệu xuất huyết dưới da được biểu hiện với các nốt xuất huyết rải rác hoặc chấm xuất huyết thường thấy ở mặt trước hai cẳng chân và mặt trong cánh tay, bụng, đùi, mạng sườn hoặc mảng bầm tím. 

Dấu hiệu xuất huyết niêm mạc được biểu hiện với hiện tượng chảy máu mũi, lợi; đi tiểu ra máu, kinh nguyệt kéo dài hoặc xuất hiện kinh sớm hơn kỳ hạn.

Dấu hiệu xuất huyết nội tạng có thể thấy ở hệ tiêu hóa, phổi, não; đây là dấu hiệu nặng. Ngoài ra, một số trường hợp nặng có thể có biểu hiện suy phủ tạng như viêm gan nặng, viêm não, viêm cơ tim. Những biểu hiện nặng này có thể xảy ra ở một số người bệnh không có dấu hiệu thoát huyết tương rõ hoặc không bị sốc; vì vậy trên thực tế lâm sàng cần cảnh giác.

Khi xét nghiệm cận lâm sàng cho thấy dung tích hồng cầu (hematocrite) tăng so với giá trị ban đầu của người bệnh hoặc so với giá trị trung bình của dân số ở cùng lứa tuổi; số lượng tiểu cầu giảm dưới 100.000/mm3 máu, enzyme AST (aspartat transaminase), ALT (alanin transaminase) thường tăng; trong trường hợp nặng có thể có rối loạn đông máu. Siêu âm hoặc chụp phim Xquang có thể phát hiện tràn dịch màng bụng, màng phổi.

Giai đoạn hồi phục thường xảy ra từ 24-48 giờ sau giai đoạn nguy hiểm khi có hiện tượng tái hấp thu dần từ mô kẽ vào bên trong lòng mạch máu. Giai đoạn hồi phục kéo dài khoảng từ 48-72 giờ sau đó. Người bệnh hết sốt, thể trạng được tốt dần lên, có cảm giác thèm ăn, huyết động ổn định và bắt đầu đi tiểu nhiều. Bệnh nhân có thể có nhịp tim chậm và thay đổi về điện tâm đồ. Trong giai đoạn này cần thận trọng vì nếu truyền dịch không kiểm soát, truyền dịch quá mức có thể gây nên phù phổi hoặc suy tim. Xét nghiệm cận lâm sàng thấy dung tích hồng cầu (hematocrite) trở về chỉ số bình thường hoặc có thể thấp hơn do hiện tượng pha loãng máu khi dịch được tái hấp thu trở lại. Số lượng bạch cầu ở trong máu thường tăng lên sớm sau giai đoạn hạ sốt. Số lượng tiểu cầu dần dần trở về chỉ số bình thường nhưng có thể chậm hơn so với số lượng bạch cầu.

Với diễn biến lâm sàng qua 3 giai đoạn đã nêu trên, việc theo dõi bệnh nhân chặt chẽ rất cần thiết để có biện pháp xử trí phù hợp theo từng giai đoạn và tiên lượng trước khả năng có thể ảnh hưởng đến người bệnh, nhất là những biến chứng trầm trọng xảy ra.

Các mức độ của bệnh sốt xuất huyết

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã khuyến cáo bệnh sốt xuất huyết xảy ra gồm 3 mức độ khác nhau là sốt xuất huyết, sốt xuất huyết có dấu hiệu cảnh báo và sốt xuất huyết nặng.

Sốt xuất huyết có dấu hiệu cảnh báo gồm các triệu chứng lâm sàng của sốt xuất huyết đã nêu trên và kèm theo các dấu hiệu cảnh báo như vật vã, lừ đừ, li bì. Bệnh nhân có triệu chứng đau bụng vùng gan hoặc ấn đau vùng gan, gan to trên 2cm; nôn nhiều, xuất huyết niêm mạc, đi tiểu ít. Xét nghiệm cận lâm sàng thấy dung tích hồng cầu (hematocrite) tăng cao và tiểu cầu giảm nhanh chóng. Nếu người bệnh có những dấu hiệu cảnh báo trên phải theo dõi sát mạch, huyết áp, số lượng nước tiểu, làm xét nghiệm dung tích hồng cầu, tiểu cầu và có chỉ định truyền dịch kịp thời.

Sốt xuất huyết nặng xảy ra khi người bệnh có một trong các biểu hiện thoát huyết tương nặng dẫn đến tình trạng sốc giảm thể tích hay còn gọi là sốc sốt xuất huyết, có ứ dịch ở khoang màng phổi và ổ bụng nhiều; có dấu hiệu xuất huyết nặng và suy tạng.

Sốc sốt xuất huyết có biểu hiện suy tuần hoàn cấp, thường xảy ra vào ngày thứ 3 đến ngày thứ 7 của bệnh với các triệu chứng như vật vã, bứt rứt hoặc li bì; lạnh đầu chi, da lạnh ẩm; mạch nhanh, nhỏ, huyết áp kẹt, hiệu số huyết áp tối đa và tối thiểu bằng hoặc dưới 20mmHg, tụt huyết áp hay không đo được huyết áp; đi tiểu ít. Sốc sốt xuất huyết lại được chia làm 2 mức độ để điều trị bù dịch gồm sốc sốt xuất huyết có dấu hiệu như suy tuần hoàn, mạch nhanh, nhỏ, huyết áp kẹt hoặc tụt; kèm theo các triệu chứng như da lạnh, ẩm, bứt rứt hoặc vật vã, li bì và sốc sốt xuất huyết nặng có dấu hiệu sốc nặng, mạch nhỏ khó bắt, huyết áp không đo được. Cần chú ý trong quá trình theo dõi diễn biến, bệnh có thể chuyển từ mức độ nhẹ sang mức độ nặng; vì vậy khi thăm khám phải phân độ lâm sàng để tiên lượng bệnh và có định hướng xử trí phù hợp.

Xuất huyết nặng được biểu hiện triệu chứng chảy máu cam nặng nên cần nhét gạc vào vách mũi để cầm máu, bị rong kinh nặng, xuất huyết trong cơ và phần mềm, xuất huyết đường tiêu hóa và nội tạng; thường kèm theo tình trạng sốc nặng, giảm tiểu cầu, thiếu ôxy mô và toan chuyển hóa, có thể dẫn đến suy đa phủ tạng và đông máu nội mạch nặng. Xuất huyết nặng cũng có thể xảy ra ở người bệnh dùng các thuốc kháng viêm như acetylsalicylic acid (aspirin); ibuprofen hoặc dùng thuốc corticoid; bệnh nhân có tiền sử loét dạ dày, tá tràng, viêm gan mạn tính.

Suy tạng nặng được biểu hiện các dấu hiệu suy gan cấp, men gan AST, ALT có thể bằng hoặc dưới 1.000U/L; suy thận cấp; rối loạn tri giác trong sốt xuất huyết thể não. Có thể viêm cơ tim, suy tim hoặc suy chức năng các cơ quan khác.

Thân Thiện (Tổng hợp)