Bệnh viêm loét miệng (nhiệt miệng)
Loét miệng là một loại bệnh về miệng thường gặp với triệu chứng là những vết loét nhỏ hình tròn hoặc hình bầu dục. Trong loại bệnh này, chứng “loét miệng mang tính tái phát” là loại thường thấy nhất. Vết loét phát sinh bên trong môi, trên lưỡi hay những vị trí khác của khoang miệng. Qua nghiên cứu, nguyên nhân bệnh là do cơ thể bị nhiễm virus, mà hai loại virus dẫn đến bệnh loét miệng là CMV ở người và ER. Trong đó, virus CMV ở người tiềm ẩn trong tế bào lympho T (lymphocyte T) trong máu, còn virus ER ẩn trong tế bào lympho B (lymphocyte B) trong máu. Khi bạn nhiễm cảm, tinh thần stress, cơ thể mệt mỏi hay hệ thống miễn dịch suy giảm, virus sẽ phát tác. Chính vì vậy, giảm áp lực, thả lỏng tinh thần, tránh lao động quá sức, và đảm bảo một giấc ngủ đầy đủ là những biện pháp rất quan trọng trong phòng tránh bệnh loét miệng.
I. Nguyên nhân gây nhiệt miệng, viêm loét miệng
Hay gặp nhất trong loét miệng là do nhiệt (theo Đông y), tức là trong cơ thể bị nóng phát ra nhiệt gây loét niêm mạc miệng. Loét miệng do nhiệt là loại nhẹ nhưng làm cho trẻ rất khó chịu, mệt mỏi, hay quấy khóc, khó ngủ và chảy nước miếng nhiều làm cho trẻ gầy sút do không ăn được hoặc ăn rất ít…
Người ta cũng thấy có thể loét miệng do virut Herpes cũng có các triệu chứng như loét miệng do nhiệt.
Người ta cũng thấy có thể loét niêm mạc miệng do virut thủy đậu. Ở trẻ em có một số bệnh cũng gây loét miệng, điển hình nhất là bệnh tay chân miệng. Trong bệnh tay chân miệng, ban đầu thường có sốt hoặc sốt nhẹ như trong bệnh thủy đậu, sưng miệng nổi bọng nước thường có kích thước khoảng từ 2-3mm hoặc bằng đầu đũa, màu đỏ hoặc xám hình bầu dục. Các nốt bọng nước thường có ở hai bên mông, đầu gối, lòng bàn tay, lòng bàn chân hoặc ở niêm mạc miệng. Đặc điểm của các nốt bọng nước trong bệnh tay chân miệng là ấn không đau. Các bọng nước có ở niêm mạc miệng khi vỡ ra tạo thành các vết loét ở trong miệng. Bệnh tay chân miệng thường có kèm theo nôn, tiêu chảy ngay khi nổi bọng nước. Bệnh tay chân miệng cũng có thể gây nên một số biến chứng nguy hiểm như viêm cơ tim, viêm màng não – não… Ở những cơ thể trẻ do nuôi dưỡng thiếu chất hoặc trẻ hấp thu kém (mặc dù gia đình đã cố gắng hết mức cho trẻ chế độ ăn tốt) gây nên thiếu một số chất cần thiết như vitamin PP, vitamin C, vitamin B12, axít folic, chất sắt cũng có thể gây loét miệng…
Loét miệng cũng có thể do chấn thương làm viêm, dập niêm mạc miệng, ví dụ như khi bị ngã. Cũng có thể do ăn thức ăn nóng làm bỏng rồi loét niêm mạc miệng. Ngoài ra một số người bị rối loạn chức năng miễn dịch làm suy giảm miễn dịch như trong bệnh AIDS hoặc gặp stress liên tục cũng có thể bị loét miệng. Dù là nguyên nhân gì gây loét miệng thì cũng làm cho người bệnh (cả trẻ em và người lớn tuổi) đều đau, rát rất khó chịu, gầy sút, mất ngủ và hay cáu gắt.
II. Cách phân biệt các loại viêm loét miệng
1. Loét miệng cấp tái phát:
Nguyên nhân
A. Do chấn thương: Chấn thương là một trong những nguyên nhân gây loét tái phát thường gặp nhất, thường do:
- Cơ học, hóa học, kích thích về nhiệt độ gây ra loét đau, lành trong vòng vài tuần không để lại sẹo. Loét sẽ bị tái phát nếu kích thích nếu vẫn tiếp tục.
- Răng giả, các thủ thuật chỉnh răng bằng kim loại, răng quá bén hoặc cắn vào niêm mạc miệng, cũng gây ra loét. Răng giả gây ra loét do áp lực, biểu hiện là vết loét nhỏ hơn 1cm trên phần chóp ổ răng. Loại này thường xảy ra ở vùng niêm mạc lỏng lẻo như má, môi dưới , hoặc lưỡi. Nghiến răng làm lở dọc theo đường nghiến tương ứng với răng hàm trên và dưới.
- Các chất hóa học như axit hoặc bazơ, những thuốc kháng viêm như aspirin dạng ngậm cũng có thể gây loét. Có nhiều thuốc bán không theo đơn cũng gây tỗn thương niêm mạc khi sử dụng kéo dài. Trẻ em hoặc người bị rối loạn tâm thần xỉa răng bằng móng tay hoặc dụng cụ cứng khác cũng gây loét.
B. Viêm loét miệng - lưỡi do aphthe tái phát (RECURRENT APHTHOUS STOMATITIS - RAS). Xảy ra cho khỏang 20% dân số, thường gặp ở phái nữ và ở trẻ em. Đa số các trường hợp bệnh giới hạn ở niêm mạc miệng-lưỡi và thường do nhiều yếu tố kết hợp: chấn thương, hút thuốc, stress, ảnh hưởng nội tiết (hành kinh, có thai, mãn kinh), di truyền, dị ứng thực phẩm, nhiễm trùng, nhiễm nấm, dị ứng thuốc, thiếu vitamine C, PP, B6, B12, thiếu sắt, bệnh lý tự miễn. Người ta đã quan sát hàng trăm gia đình và nhận thấy bệnh này dường như cũng có yếu tố di truyền. Cha mẹ bị loét miệng thì trẻ nhỏ và con gái trong nhà cũng dễ bị bệnh.
RAS chia làm 2 loại dựa vào hình thái hoặc lâm sàng
1. Theo hình thái - Loét dạng aphthe nhỏ (Canker sores - Minor aphthous ulcerations) thường gặp nhất, chiếm khoảng 80 % , điển hình là có một vài đến nhiều vết loét <1 cm, nông, nằm rời rạc hoặc thành đám, lành trong khỏang 7 - 14 ngày không để lại sẹo. - Lóet dạng aphthe lớn (Cold sores - Major aphthous ulcerations): Còn gọi là bệnh Sutton hoặc hoại tử niêm mạc miệng tái phát có viêm hạch ngoại biên, chiếm khoảng 10 %.Vết loét có kích thước lớn hơn, thường >1cm, có một hoặc nhiều, lành chậm hơn hoặc dai dẳng nhiều tuần, sau cùng để lại sẹo do hoại tử lan rộng. Loại loét dạng herpes để chỉ tổn thương kết thành chùm, nhưng không liên quan đến virus herpes, thường số lượng nhiều từ 10 - 100 , nhiều vết loét nhỏ nhanh chóng kết hợp lại thành mảng lớn, lành trong khỏang 7 - 30 ngày. RAS có chung đặc điểm là vết loét có màu đỏ ở xung quanh, trung tâm có mảng mục màu vàng, có thể có giai đoạn báo trước kéo dài khoảng 24 giờ, kế đến là đau nhiều 2 – 3 ngày, dần dần giảm đau khi bắt đầu lành
2. Theo lâm sàng - Loét đơn giản: Số lượng từ vài đến nhiều vết loét, lành trong vòng 1 - 2 tuần, hay tái phát.
- Loét phức tạp: Biểu hiện lâm sàng nặng, kích thước lớn, số lượng nhiều, loét sâu, , tồn tại dai dẳng, chậm lành, đau nhiều. Loét mới tạo thành khi loét cũ vừa lành, bệnh nhân ít khi thấy khỏi bệnh.Đôi khi RAS là triệu chứng của bệnh hệ thống như:Hội chúng Behcet; sốt, loét miệng-sinh dục dạng aphthe, viêm họng, viêm hạch. RAS cũng gặp trong các bệnh viêm ruột mãn tính : bệnh Crohn,viêm loét đại tràng, bệnh ruột nhạy cảm Gluten, thiếu máu thiếu sắt, folate, vitamin B12, rối loạn kinh nguyệt, thiếu máu ác tính. Mặc dù vậy, chỉ 40% bệnh nhân bị aphthe vô căn và có nhiều yếu tố liên quan. Người ta thừa nhận là do phản ứng chéo giữa vi sinh vật và lớp biểu mô ở miệng, hoạt động như là một kháng nguyên kích thích tạo kháng thể và đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào, chúng hoạt đông riêng lẻ hoặc kết hợp nhau gây nên loét .
C. Viêm miệng do Herpes simplex virus
Nhiễm Herpes ở miệng không phổ biến. Có hai dạng nhiễm Herpes có ảnh hưởng khoang miệng. Nhiễm Herpes nguyên phát còn gọi là viêm miệng, lợi do Herpes cấp tính, xảy ra sau nhiễm virus Herpes, biểu hiện tòan thân nhiễm trùng, hầu hết ở trẻ em bởi vì nhiễm nguyên phát xảy ra ở trước thời kỳ trưởng thành. Dạng phổ biến là nhiễm Herpes ở môi, hay còn gọi là đau do lạnh hoặc sốt mụn nước, điển hình xảy ra ở môi, màu đỏ sậm và không thuộc phổ của loét miệng. Dạng ít gặp là dạng nhiễm Herpes miệng, nhiều khi nhiễm Herpes miệng nhưng không triệu chứng và không nhận thức được có nhiễm bệnh. Về lâm sàng, chẩn đoán phân biệt chính của RAS là nhiễm virus Herpes simplex. Đặc điểm chính để phân biệt là vị trí tổn thương:
- RAS thường xảy ra trên vùng niêm mạc lỏng lẻo, không bị sừng hóa như: niêm mạc má, môi, sàn miệng,và mặt dưới lưỡi.
- Loét do Herpes xảy ra ở niêm mạc bị sừng hóa, có liên quan mật thiết với quá trình nhai: khẩu cái cứng, lợi, mặt lưng lưỡi, tùy theo vùng chấn thương.
Nhìn chung, RAS phổ biến hơn nhiễm Herpes miệng tái phát, tổn thương của RAS không có giai đoạn mụn nước và thừơng kích thước lớn hơn loét do Herpes. Nhiễm Herpes được xác định bằng tế bào học và cấy virus. Tế bào học Tzanck nền vết loét thấy biểu hiện của nhiễm virus điển hình: Nền như thủy tinh, nhân chromatin và tế bào khổng lồ đa nhân. Cấy virus là tiêu chuẩn vàng. Gần đây kỹ thuật khuếch đại PCR có thể biểu hiện mức DNA trong mô , nhạy cảm hơn và nhanh hơn cấy virus. Sinh thiết khi các phương pháp trên thất bại, nhất là khi loét không điển hình, ở người suy giảm miễn dịch, nhiễm Herpes có thể ở bất kỳ vị trí nào nên khó phân biệt với RAS.
2. Loét miệng đơn độc:
A. Do chấn thương
Loét do thủ thuật nha khoa, bỏng do nhiệt do ăn thức ăn nóng hay bị ở vòm miệng, răng gỉa không vừa, răng bị bể, các thủ thuật răng gây ra loét tái phát hoặc dai dẳng, trẻ em do que kem, viết, hoặc vật sắc nhọn.
B. Thuốc
Hiếm, hầu hết được xem xét trong loét mãn tính, nhưng nên chú ý khi bị loét gần đây mà không có nguyên nhân rõ ràng.Các thuốc thường gây loét miệng gồm: thuốc kháng giáp, Hydroxyurea, Alendronate, thuốc ức chế kênh canxi, Captopril, kháng viêm non-steroid (piroxicam, indomethacin, ibuprofen…), thuốc độc tế bào(Methotrexate, Doxorubicin…) Loét do thuốc có thể xảy ra do cơ chế miễn dịch hoặc không do miễn dịch.
- Trong cơ chế miễn dịch, thuốc khởi phát đáp ứng miễn dịch tạo ra phản ứng nhằm vào bề mặt biểu mô. Khả năng phản ứng phụ thuộc vao khả năng sinh miễn dịch của thuốc, tần suất, phản ứng của hệ miễn dịch. Đối với miễn dịch qua trung gian tế bào, tế bào T bị kích hoạt bởi tế bào nhận diện kháng nguyên, làm phóng thích cytokines và chất trung gian gây viêm khác , gây độc tại chỗ tạo nên loét. – Trong cơ chế không do miễn dịch, thuốc trực tiếp kích thích tế bào đơn nhân và lympho phóng thích chất trung gian gây viêm, không phụ thuộc vào kháng thể.
- Lóet do thuốc có khích thước lớn, đơn độc, thường ở cạnh bên lưỡi,có quầng màu trắng và dai dẳng tiến triển đến loét mãn tính, có thể kéo dài hàng tháng , hàng năm.
- Chẩn đoán dựa vào tiền sử dùng thuốc và giảm khi ngưng thuốc.
- Hội chứng Stevens- Johnson là dạng nặng của loét do thuốc. Có nhiều thuốc gây nên nhưng thường nhất là sulfonamide, thuốc chống động kinh…
C. Do điều trị
- Hóa trị liệu: Thuốc chống ung thư liều cao không những ảnh hưởng tế bào ác tính mà còn độc với mô bình thường, phá vỡ hàng rào niêm mạc miệng gây nên nhiễm trùng do vi trùng nội sinh hoặc mắc phải , là bệnh sinh tồn tại dai dẳng của viêm và loét niêm mạc, dùng thuốc súc miệng hoặc chất bảo vệ niêm mạc làm giảm bệnh
- Loét do bức xạ: Điều trị ung thư vùng đầu cổ bằng xạ ngoài sẽ gây loét miệng khỏang 2-3 tuần sau đó. Độ nặng phụ thuộc vào độ rộng của điều trị và tình trạng niêm mạc. Ví dụ như loét sẽ lành từ 2 tuần - 2 tháng sau khi ngưng điều trị. Tia xạ không làm bùng phát Herpes simplex , nhưng làm bùng phát nhiễm nấm và vi trùng gram (-). Người mang răng giả và làm thủ thuật răng có nguy cơ bị loét sau liệu pháp xạ, nên tham khảo ý kiến nha sĩ trước điều trị. Điều trị các vết loét dạng này nhằm giảm đau, kháng viêm và phòng nhiễm trùng thứ phát.
D. Do nhiễm trùng:
Nhiều loại vi trùng có thể gây loét miệng.
- Viêm loét lợi răng hoại tử cấp tính:
Là bệnh loét lợi răng khởi phát đột ngột, là nhiễm trùng hủy hoại quanh ổ răng làm ảnh hưởng lợi răng, những vùng khác cũng có thể bị ảnh hưởng. Bệnh thường gặp ở người nhạy cảm, thiếu dinh dưỡng, suy giảm miễn dịch. Ở nước phát triển, bệnh dễ xảy ra ở người lớn trẻ có yếu tố nguy cơ cao như: mệt mỏi, hút thuốc, vệ sinh kém.Ở nước chậm phát triển, thường gặp ở trẻ em suy dinh dưỡng. Bệnh có liên quan đến u hạch bạch huyết, sốt, mệt mỏi, lợi răng đỏ tươi, xuất huyết, đau. Đầu tiên, loét ở vùng khe răng (mô tam giác giữa 2 răng), không có mụn nước, sau đó loét lan rộng ở bờ của lợi răng, cuối cùng bao phủ bởi giả mạc màu trắng xám, nguyên nhân do vi trùng kỵ khí cộng với sức đề kháng cơ thể bị suy yếu bởi vì vi trùng vi sinh vật nội sinh cơ hội. Bệnh không lây, điều trị nhằm làm sạch và kháng sinh thích hợp.
- Giang mai:
Tất cả 3 giai đoạn đều liên quan loét niêm mạc.
* Giang mai thời kỳ 1: Loét gọi là săng, xảy ra ở vị trí vi trùng xâm nhập vào niêm mạc. Vết loét không đau, cứng,bờ nhô lên, kéo dài vài tuần, không tiết dịch, lành không để sẹo.
* Giang mai thời kỳ 2: Tổn thương miệng gồm: Viêm họng không chuyên biệt, mảng lấp lánh, loét miệng.Đặc trưng nhất là mảng niêm mạc: Lóet bất định, nông, phủ giả mạc màu trắng xám, với hồng ban xung quanh, có khi đau. Mảng niêm mạc dính nhau tạo thành vết loét như đường đi ốc sên.
* Giang mai thời kỳ 3: Biểu hiện là gồm: Viêm lưỡi với teo niêm mạc có khuynh hướng chuyển sang ác tính. Loét do giang mai không phổ biến, nhưng tỉ lệ nhiễm HIV gia tăng nên phải chú ý giang mai đối với loét miệng bất thường.
- Lậu: Loét miệng xảy ra khi tiếp xúc miệng sinh dục. Lậu ở miệng hiếm gặp, biểu hiện là nhiều vết loét viêm đỏ tấy niêm mạc với giả mạc màu trắng, có thể không có triệu chứng,hoặc đau họng nặng, có thể có hạch. Tổn thương ở miệng của lậu không chuyên biệt, có thể nhầm lẫn với nhiễm Herpes, hồng ban đa dạng, bệnh bóng nước miễn dịch.
- Xơ cứng mũi: Hiếm gặp,do Klebsiella, gây ra u hạt tăng sinh ở niêm mạc miệng, đôi khi loét.
- Lao: Vi trùng lao trong nước bọt có thể xâm lấn niêm mạc gây loét cứng không lành tạo ra u hạt viêm liên quan với hoại tử giống phó mát, chẩn đoán dựa vào cấy mô.
- Nhiễm Histoplasma: Nhiễm Histoplasma lan tỏa có thể gây loét miệng, nhiều vùng bị ảnh hưởng: Hầu, sau lưỡi, khẩu cái, niêm mạc má kèm theo đau, sụt cân, khàn tiếng. Chẩn đoán xác định phải cần đến sinh thiết và cấy bệnh phẩm.
E. Nhiễm virus:
a. Herpes simplex virus
Nhiễm Herpes nguyên phát là tình trạng nhiễm lần đầu ở miệng, còn gọi là viêm miệng lợi Herpes nguyên phát. Nhiễm nguyên phát có thể gặp ở cả niêm mạc sừng hóa và không sừng hóa, dạng điển hình xảy ra ở thời niên thiếu , bệnh xảy ra ở người trưởng thành thì không có triệu chứng. Biểu hiện là vùng mụn nước lan rộng, rồi tạo thành vết loét,có thể sốt, viêm họng, nổi hạch., có thể gặp ở môi, mép, thậm chí ở mặt và niêm mạc miệng, thường lành trong vòng 7 - 10 ngày.
b. VZV (Varicella zoster virus)
Nhiễm VZV nguyên phát (thủy đậu ): Loét, mụn nước ở niêm mạc miệng có liên quan tổn thương da, thường gặp ở trẻ em và tuổi dậy thì, diễn tiến thường không phức tạp, tổn thương ở miệng lành nhanh. VZV tiềm ẩn trong mô thần kinh, sự tái hoạt gây phát ban da theo dermatome , tương ứng với rễ thần kinh. VZV ảnh hửơng nhánh dây thần kinh V gây loét miệng, rất đặc trưng vì cùng bên với đau và dị cảm. Mụn nước ở miệng vỡ nhanh tạo vết loét , thường ở vòm miệng, má, lưỡi, họng.
c. Coxsackie virus
Gây bệnh tay chân miệng, gặp ở trẻ em. Tiền triệu sốt nhẹ, triệu chứng giống cúm, mụn nước trên nền đỏ tạo thành loét, gặp ở niêm mạc miệng, lưỡi gà, tay, chân, mông. Loét có thể xuất hiện ở khắp niêm mạc miệng , đặc biệt ở khẩu cái, lưỡi, niêm mạc má.
d. Rubeola
Gây ra bệnh sởi,dấu hiệu ở miệng chính là dấu Koplik, với dát hồng ban nhỏ ở niêm mạc má, trung tâm hoại tử trắng, thường xuất hiện 1-2 ngày trước triệu chứng toàn thân., khi đó mất đi nhanh chóng.Sau đó xuất hiện triệu chứng da điển hình của sởi: bắt đầu ở đầu, cổ, lan xuống dưới.
e. Epstein- Barr virus (EBV) Gây hội chứng sốt, liên quan loét miệng vùng sau miệng hầu, nhiễm đơn nhân điển hình biểu hiện: mệt mỏi, nổi hạch, rối loạn chức năng gan.Tổn thương miệng thường không quan trọng, chẩn đoán dựa trên test Monospot ( – ), có kháng thể có hình thái dị hình Nhiễm cytomegalovirus có biểu hiện lâm sàng tương tự EBV , thường không triệu chứng, đôi khi gây loét miệng.
III. Cách phòng ngừa và điều trị viêm loét miệng
Giảm áp lực, thả lỏng tinh thần, tránh lao động quá sức, và đảm bảo một giấc ngủ đầy đủ là những biện pháp rất quan trọng trong phòng tránh bệnh loét miệng.
Phụ nữ mắc chứng bệnh này nhiều hơn nam giới, đặc biệt là trước thời kì kinh nguyệt. Tính khởi phát của bệnh có liên quan đến lượng estrogen (Estrogen được các tế bào hạt của buồng trứng tiết ra, được gọi là nội tiết tố nữ), một khi lượng estrogen giảm, rất dễ mắc bệnh loét miệng.
Do đó, chị em phụ nữ tuyệt đối nên chú ý đến việc chăm sóc cơ thể, không nên giảm cân quá nhanh, phải nạp đủ protein mỗi ngày, và thường xuyên bổ sung chất estrogen từ các loại thực phẩm tự nhiên như đậu tương, hành...
Nếu sau khi sử dụng một loại thuốc đánh răng mới hay ăn những món ăn lạ mà bạn gặp rắc rối với bệnh loét miệng, thì trước hết nên xem xét có phải nguyên nhân là do dị ứng hay không, sau đó lập tức ngưng sử dụng. Bên cạnh đó, nên súc miệng bằng nước ấm, và dùng một lượng nhỏ mật ong xoa lên vùng bị loét, làm nhiều lần như thế, sau 2 ngày vết loét sẽ lành đáng kể.
“Kết bạn” với những vết loét miệng còn là hiện tượng táo bón và hôi miệng, vì vậy, bạn phải ăn nhiều hoa quả, rau xanh, uống nhiều nước, thậm chí nên uống 1.000ml nước mỗi ngày. Biện pháp này có thể giúp thanh lọc dạ dày, tránh táo bón, có lợi cho việc hồi phục vết loét nhanh chóng.
Thiếu vitamin B2 cũng là một trong những nguyên nhân gây nên bệnh loét miệng. Trị liệu bằng cách dùng các vitamin nhóm B như B2, B6 rất có hiệu quả. Có nhiều loại rau quả tươi giàu vitamin và khoáng chất, bạn nên ăn nhiều rau quả có màu xanh sậm và vàng, chí ít mỗi ngày cũng nên ăn khoảng 500 gam rau quả, để bổ sung lượng vitamin cơ thể thiếu. Ngoài ra, còn phải chú ý ăn đầy đủ các loại thực phẩm khác để nạp thêm vitamin A và kẽm.
Ăn nhiều rau quả tươi để phòng ngừa viêm loét miệng, nhiệt miệng
Bệnh loét miệng cũng được coi là tín hiệu thể chất yếu, do đó người bệnh trong quá trình chữa trị, không nên bỏ qua việc tăng cường sức khỏe, cải thiện thể chất.
Nếu những vết loét xuất hiện cùng lúc với việc bạn cảm thấy rất mệt mỏi, thì nên đi kiểm tra xem liệu chất dinh dưỡng trong cơ thể bạn hiện có cân bằng không, bạn nghỉ ngơi đã đầy đủ chưa, đồng thời phải tăng lượng vitamin và khoáng chất bồi dưỡng cho cơ thể.
Đặc biệt, loét miệng không chỉ là loại bệnh của người lớn mà còn xuất hiện với tỷ lệ khá cao ở trẻ em từ 1- 6 tuổi.
Trị liệu cho những trẻ mắc chứng loét miệng do nhiệt, do thiếu dinh dưỡng, các bà mẹ bên cạnh việc bổ sung cho trẻ vitamin và khoáng chất, có thể sử dụng một số phương cách đơn giản như: Cán nát từ 1 đến 2 viên vitamin C, rắc lên trên bề mặt vết loét, sau đó ngậm miệng lại một lúc, làm 2 lần một ngày. Hoặc cho trẻ ngậm nước ép cà chua mỗi ngày khoảng 3-4 lần cũng là biện pháp làm vết loét mau lành.
Tuy nhiên, loét miệng do nhiều nguyên nhân khác nhau, có loại đơn thuần nhưng có loại nguyên nhân gây loét miệng và biến chứng nguy hiểm, vì vậy khi bị loét miệng kéo dài, nên đi khám bệnh để bác sĩ để có hướng điều trị thích hợp.
IV. Các mẹo nhỏ chữa viêm loét miệng, nhiệt miệng
1. Nghiền nát vài mảnh cùi dừa, sau đó ép lấy nước và dùng để súc miệng khoảng 3 đến 4 lần mỗi ngày.
2. Cầm một cốc nước nóng và một cốc nước lạnh sẵn trên tay. Dùng hai cốc nước đó để súc miệng, lần lượt súc từ nước nóng đến nước lạnh.
3. Đun sôi 2 cốc nước lạnh, sau đó thêm vào 1 cốc lá cỏ cà ri. Bắc xuống khỏi bếp và vớt lá ra, để nguội dùng nước đó để súc miệng từ 2 đến 3 lần/ngày.
4. Đun sôi một cốc nước cùng với 1 thìa hạt rau mùi. Gạn lấy nước dùng súc miệng. Mỗi ngày dùng để súc miệng từ 3 đến 4 lần.
5. Nhai 5 đến 6 lá rau húng nhấp vài ngụm nước lạnh. Mỗi ngày 5-6 lần.
6. Nhai cà chua sống là cách làm rất công hiệu trong trường hợp này. Hoặc bạn cũng có thể ngậm nước ép cà chua mỗi ngày khoảng 3 – 4 lần.