Bệnh tả
Bệnh tả
Bệnh tả ở người (Cholerae) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính ở đường tiêu hoá do vi khuẩn tả Vibrio cholerae gây ra. Biểu hiện bệnh tả chủ yếu là nôn và tiêu chảy với số lượng lớn, người bệnh dễ dẫn đến mất nước và điện giải trầm trọng, gây sốc nặng. Nếu bệnh nhân không được điều trị kịp thời sẽ dẫn đến tử vong.
Trước đây, bệnh tả ở người đã gây những trận đại dịch lớn, gây tử vong cho hàng triệu người. Hiện nay, bệnh tả đã được khống chế ở nhiều nơi nhưng vẫn còn xảy ra những đợt dịch ở các nước châu Phi và một số nước châu Á. Bệnh tả ở Việt Nam vẫn còn xảy ra nhưng đa phần chỉ là những trường hợp tản phát, thường vào mùa hè ở các tỉnh ven biển.
Bệnh tả (Ảnh minh họa).
Các thể bệnh tả:
- Thể bệnh tả không triệu chứng
- Thể nhẹ: bệnh tả giống như tiêu chảy thường.
- Thể điển hình: bệnh tả có diễn biến cấp tính, biểu hiện là nôn và tiêu chảy số lượng lớn
- Thể tối cấp: bệnh tả diễn tiến nhanh chóng, mỗi lần đi tiêu chảy mất rất nhiều nước, vô niệu, toàn thân suy kiệt nhanh chóng sau vài giờ tiêu chảy và có thể tử vong do trụy tim mạch.
- Bệnh tả ở trẻ em: gặp phổ biến là thể nhẹ giống như bệnh tiêu chảy thông thường. Ở những trẻ lớn hơn, tiêu chảy và nôn mửa xảy ra giống như người lớn, có thể kèm theo sốt nhẹ.
- Bệnh tả ở người già: thường dẫn đến biến chứng suy thận dù đã được bù dịch đầy đủ.
Nguyên nhân gây Bệnh tả
Vi khuẩn vibrio cholerae là nguyên nhân gây ra bệnh tả ở người. Vibrio cholerae có dạng cong hình dấu phẩy, có khả năng di động nhanh nhờ có một lông, chúng phát triển tốt trong môi trường có nhiều dinh dưỡng, môi trường kiềm như trong nước, thức ăn, trong cơ thể của các động vật biển (cá, cua, sò biển...)... đặc biệt là trong nhiệt độ lạnh, phẩy khuẩn tả có thể sống được vài ngày đến 2 - 3 tuần. Phẩy khuẩn tả có bị tiêu diệt bởi nhiệt độ (80°C/5 phút), hoá chất diệt khuẩn thông thường và môi trường axit.
Độc tố cholerae do vi khuẩn tả sản sinh trong ruột non chính là nguyên nhân quan trọng nhất gây ra bệnh. Độc tố này liên kết với thành ruột, cản trở dòng chảy bình thường của natri và clorua, làm cho cơ thể tiết ra một lượng nước khổng lồ, dẫn đến tiêu chảy và nhanh chóng mất một lượng lớn nước và điện giải.
Nguồn nước ô nhiễm là nguồn bệnh chính của bệnh tả, ngoài ra sò ốc sống, trái cây tươi sống, rau quả và các loại thực phẩm khác cũng có thể chứa vi khuẩn cholerae.
Triệu chứng
Các biểu hiện chính của bệnh tả là tiêu chảy nhiều, không đau bụng và nôn mửa những chất lỏng trong suốt. Tiêu chảy đã từng được mệnh danh là "cái chết xanh" do da của bệnh nhân chuyển sang sắc xám xanh là kết quả của việc mất quá nhiều nước
Thời kỳ ủ bệnh
Kéo dài từ vài giờ cho đến 5 ngày.
Thời kỳ khởi phát
Biểu hiện chủ yếu là sôi bụng, đầy bụng, tiêu chảy vài lần.
Thời kỳ toàn phát
- Tiêu chảy liên tục, đi ngoài rất nhiều lần với khối lượng lớn, có khi 10 đến 20 lít nước chất thải một ngày. Đặc điểm phân trong bệnh tả điển hình chỉ toàn là nước, màu trắng lờ đục như nước vo gạo, không thấy có nhầy máu.
- Nôn mửa rất dễ dàng, lúc đầu nôn ra thức ăn, lúc sau nôn toàn nước.
- Bệnh nhân mắc bệnh tả thường không sốt, ít khi đau bụng.
- Tình trạng mất điện giải gây mệt lả, chuột rút...
- Triệu chứng mất nước: tụt huyết áp, mạch nhanh, mắt trũng, da nhăn nheo, giảm nước tiểu....
Thời kỳ hồi phục
Bệnh tả ở người thường diễn biến từ 1 - 3 ngày nếu được bù đủ nước và điều trị kháng sinh phù hợp.
Đường lây truyền Bệnh tả
Bệnh tả lây qua đường nào?
Bệnh tả chủ yếu truyền qua nguồn thức ăn hoặc nguồn nước bị nhiễm khuẩn. Ở các nước phát triển, hải sản thường là nguyên nhân chính, còn ở các nước đang phát triển con đường truyền chủ yếu từ nguồn nước
Khi ăn phải thức ăn có chứa vi khuẩn, hầu hết chúng không thể sống sót được trong môi trường axit của dạ dày người. Một số vi khuẩn sống sót vượt qua khỏi dạ dày và đến ruột non, chúng sẽ di chuyển qua màng nhầy dày của ruột để đến thành ruột, nơi mà chúng có thể phát triển mạnh. Vi khuẩn V. cholerae bắt đầu sản xuất các sợi xoắn xoay để đẩy mình qua chất nhầy của thành ruột non.
Khi đến thành ruột, V. cholerae bắt đầu sản xuất các độc tố gây tiêu chảy lượng lớn ở người bị nhiễm. Hậu quả dẫn đến là đưa các lứa vi khuẩn mới vào nguồn nước uống và sẽ đi vào những vật chủ tiếp theo nếu không có các biện pháp vệ sinh thích hợp và đúng chỗ.
Đối tượng nguy cơ
Bệnh tả cực kỳ phổ biến ở những nơi có điều kiện vệ sinh kém, đông đúc, chiến tranh và nạn đói. Dịch tả thường xuất hiện ở những vùng như châu Phi, Nam Á và Mỹ Latinh. Bệnh có thể ảnh hưởng đến mọi lứa tuổi, nhưng sẽ nguy hiểm hơn nếu xuất hiện ở trẻ nhỏ.
Có nhiều yếu tố làm tăng nguy cơ gây bệnh tả, chẳng hạn như:
- Điều kiện vệ sinh kém
- Sống ở các khu vực trại tị nạn, các nước nghèo và các khu vực bị tàn phá bởi nạn đói, chiến tranh hay thiên tai
- Giảm hoặc không có axit dạ dày
- Người nhóm máu O: các nghiên cứu gen mới đây cho thấy rằng mức độ dễ bị lây nhiễm của một người đối với bệnh tả phụ thuộc vào nhóm máu của họ. Người có nhóm máu O dễ bị lây nhiễm nhất trong khi người có nhóm máu AB có khả năng kháng cự nhiều nhất, gần như là miễn nhiễm.
- Ăn thức ăn chưa được nấu chín và các loài hải sản có vỏ.
Phòng ngừa
Những thói quen sinh hoạt giúp phòng ngừa bệnh tả:
- Rửa tay bằng xà phòng và nước thường xuyên, đặc biệt là sau khi đi vệ sinh và trước khi chế biến thức ăn. Nếu không có xà phòng và nước, có thể sử dụng chất khử trùng tay có cồn.
- Uống nước đun sôi hoặc đã được khử trùng.
- Ăn thực phẩm còn nóng và được nấu chín hoàn toàn, tránh những thực phẩm bán hàng rong ngoài đường không đảm bảo vệ sinh
- Tránh ăn sushi, các món hải sản sống
- Gọt vỏ trái cây, rau quả trước khi ăn, chẳng hạn như chuối, cam, nho
- Cảnh giác với các thực phẩm từ sữa, bao gồm cả kem và sữa chưa tiệt trùng.
- Vắc-xin: vắc-xin tả dùng qua đường uống an toàn và hiệu quả. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo tiêm chủng của các nhóm có nguy cơ cao như trẻ em, người bị nhiễm HIV, ở những quốc gia mà bệnh tả vẫn còn nhiều.
Các biện pháp chẩn đoán bệnh
Chẩn đoán dựa vào triệu chứng lâm sàng thông qua hỏi bệnh và thăm khám. Sau đó, bác sĩ sẽ đề nghị các xét nghiệm để chẩn đoán xác định:
- Soi phân: giúp chẩn đoán nhanh. Soi phân dưới kính hiển vi nền đen sẽ thấy phẩy khuẩn tả di động mạnh trong phân, nhuộm Gram cho hình ảnh phẩy khuẩn không bắt màu Gram.
- Cấy phân: phải lấy phân sớm khi xuất hiện triệu chứng tiêu chảy lần đầu tiên và trước khi điều trị kháng sinh. Cấy phân vào môi trường chuyên biệt: phẩy khuẩn tả sẽ mọc rất nhanh và có thể xác định sau 24 giờ cấy.
- Kỹ thuật PCR tìm gen CTX: giúp chẩn đoán bệnh tả nhanh (nếu có điều kiện).
- Cô đặc máu: Hematocrit tăng.
- Rối loạn điện giải: giảm kali, giảm bicarbonat, pH thấp.
- Suy thận: nồng độ ure và creatinin máu tăng trong những trường hợp bệnh tả nặng
Các biện pháp điều trị
Nguyên tắc điều trị bệnh tả ở người
- Cách ly bệnh nhân nhiễm phẩy khuẩn tả.
- Bổ sung nước và điện giải nhanh chóng, đầy đủ.
- Sử dụng thuốc kháng sinh để diệt vi khuẩn.
Điều trị cụ thể:
- Bù nước và điện giải: mục tiêu là để thay thế nước và các chất điện giải bằng các loại dịch qua đường uống (oresol, nước cam chanh...)
- Dịch truyền tĩnh mạch: trong bệnh tả, hầu hết triệu chứng sẽ giảm nếu được bù nước bằng đường uống, nhưng nếu bệnh nhân mất nước nghiêm trọng, bác sĩ có thể cho truyền dịch tĩnh mạch
- Thuốc kháng sinh: Thuốc kháng sinh không cần thiết cho việc điều trị bệnh tả, nhưng một số loại thuốc có thể làm giảm cả số lượng và thời gian tiêu chảy. Một liều doxycycline hoặc azithromycin có thể có hiệu quả
- Bổ sung kẽm: Nghiên cứu đã chỉ ra rằng kẽm có thể làm giảm và rút ngắn thời gian tiêu chảy ở trẻ em mắc bệnh tả.