Babesia (nhiễm trùng do Babesia)
Babesia (nhiễm trùng do Babesia)
Bệnh Babesia là bệnh nhiễm trùng hiếm gặp do một loài ký sinh trùng rất nhỏ có tên Babesia gây ra. Bệnh lây truyền sang người thông qua vết cắn của một số loài bọ ve. Trong bệnh babesia, ký sinh trùng sẽ xâm nhập và ký sinh ở trong hồng cầu của người bệnh. Do đó, người mắc bệnh sẽ có các biểu hiện là sốt, tan máu và đái ra huyết cầu tố.
Babesia là các ký sinh đơn bào lây truyền qua ve bọ của động vật hoang dã và gia súc, phân bổ toàn thế giới. Bệnh này chủ yếu xảy ra là do nhiễm ký sinh trùng Babesia microti, thường là do bị bọ ve Ixodes (bọ ve hươu) cắn. Vật chủ tự nhiên của B. microti là hàng loạt động vật hoang dại và gia súc, nhất là chuột chân trắng và hươu đuôi trắng. Cùng với việc mở rộng vùng sinh sống của hươu, tỷ lệ nhiễm bệnh ở người cũng có xu hướng tăng lên.
Con người bị nhiễm bệnh Babesia chủ yếu là do bị loài ve Ixode dammini đốt. Tuy nhiên việc lây nhiễm bệnh Babesia do bị truyền phải máu có chứa mầm bệnh cũng đã được thông báo.
Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh này chủ yếu xảy ra là do nhiễm ký sinh trùng Babesia microti, nhiễm trùng do Babesia divergèns hiếm gặp hơn. B. microti là loài gây bệnh quan trọng nhất tại châu Mỹ, ngược lại B. divergens là dòng ưu thế tìm thấy ở châu Âu.
Bệnh thường được truyền sang người qua vết chích của một loại bọ ve nhỏ xíu đã bị nhiễm bệnh (tại Massachusetts, là bọ ve trên hươu nai). Nguy cơ mắc bệnh cao nhất xảy ra trong thời gian cuối tháng năm đến tháng chín, khi các loài bọ ve hoạt động mạnh nhất. Bọ ve phải bám cơ thể và hút máu trong thời gian từ 36 đến 48 giờ đồng hồ trước khi có thể truyền mầm bệnh sang người.
Mặc dù bất kỳ ai cũng có thể mắc bệnh babesiosis, nhưng những người thường xuyên ở ngoài trời có nguy cơ mắc bệnh cao hơn. Bọ ve nhiễm bệnh babesiosis thường có tại các vùng bờ biển, như Nantucket, Martha’s Vineyard và Cape Cod. Chứng bệnh này cũng có thể lây qua việc truyền máu nhiễm bệnh, hay từ phụ nữ mang thai lây sang cho con, nhưng những trường hợp này rất hiếm khi xảy ra.
Chỉ với một vết chích, người ta có thể cùng lúc bệnh Babesia và những bệnh khác do bọ ve là tác nhân truyền bệnh (ví dụ như bệnh Lyme).
Triệu chứng bệnh
Đa phần những người mắc bệnh bởi loại ký sinh trùng này chỉ có những triệu chứng nhẹ hoặc không có biểu hiện nào nên dễ bị bỏ qua.
Với những người có biểu hiện bệnh rõ ràng, các triệu chứng của bệnh có thể từ nhẹ tới nặng và có thể kéo dài trong vài ngày hoặc vài tuần. Giai đoạn ủ bệnh kéo dài 1- 4 tuần, và bệnh nhân thường không nhớ là đã từng bị ve đốt hay không. Các triệu chứng bao gồm:
- Sốt thất thường,
- Ớn lạnh hoặc rét run,
- Đau đầu,
- Vã mồ hôi,
- Buồn nôn, nôn,
- Đau bụng,
- Mệt mỏi,
- Đau nhức cơ và các khớp,
- Nước tiểu sẫm màu và thiếu máu do tan máu (kí sinh trùng B. microti xâm nhập tế bào hồng cầu và nhân lên, dẫn đến vỡ hồng cầu và khởi đẩu quá trình nhiễm các hồng cầu khác).
- Trường hợp nặng có thể thấy có các dấu hiệu vàng da và gan to, lách to.
Bệnh này có thể đặc biệt nghiêm trọng đối với những người cao tuổi, người có lá lách yếu, người có hệ miễn dịch suy yếu, hay người có những vấn đề sức khỏe khác.
Mặc dù ký sinh trùng lưu hành trong máu có thể kéo dài nhiều tháng, có hoặc không có triệu chứng, bệnh thường tự khỏi, và sau vài tuần hoặc vài tháng, phần lớn bệnh nhân khỏi không để lại di chứng. Những người đã phẫu thuật cắt lách, những người cao tuổi hoặc suy giảm miễn dịch là những người có khả năng bị bệnh nặng.
Một vài trường hợp nhiễm B. divergens được thông báo, tất cả đều xảy ra ở bệnh nhân đã được phẫu thuật cắt lách. Các trường hợp bệnh này diễn biến nhanh với sốt cao, thiếu máu tan huyết nặng, hoàng đảm, hemoglobin niệu và suy thận; hậu quả thường là dẫn đến tử vong.
Phòng ngừa
Để phòng ngừa bệnh Babesia và các loại bệnh khác lây truyền qua bọ ve, cách bảo vệ tốt nhất là tránh tiếp xúc với loài bọ này. Khi làm việc hay vui chơi ngoài trời trong các khu vực có thể có bọ ve (nhất là những vùng có cỏ cao, cỏ dại, rừng rậm rạp, nhiều lá cây) bạn nên:
- Mặc quần áo sáng màu (để dễ dàng phát hiện bọ chét), quần dài và áo dài tay.
- Tạo ra một “rào cản bọ chét” bằng cách nhét ống quần vào vớ và nhét áo vào trong quần.
- Nên sử dụng thuốc chống côn trùng khi có đi ra ngoài. Nếu sử dụng các sản phẩm này, hãy làm theo hướng dẫn của nhà sản xuất ghi trên nhãn. Sau khi trở vào nhà, rửa sạch thuốc bằng xà bông và nước ấm.
- Kiểm tra kỹ quần áo và da (nhất là ở đùi, háng, cánh tay, dưới nách, chân và da đầu) sau khi đi vào khu vực có bọ chét. Nếu phát hiện có bọ chét, hãy dùng nhíp đầu nhọn gỡ chúng ra ngay lập tức. Khi gỡ bọ chét, dùng nhíp kẹp bọ chét càng sát da càng tốt và kéo thẳng mạnh tay. Sau khi gỡ bọ chét, hãy dùng cồn để khử trùng vùng da đó. Không được ép hay nghiền bọ ve khi nó còn bám trên da.
- Nói chuyện với bác sĩ thú y về cách phòng ngừa bọ chét tốt nhất cho thú nuôi của quý vị.
Nhiễm Babesia có thể được kiểm soát nếu bạn lưu ý vài điều sau:
- Đi khám càng sớm càng tốt và không tự ý uống thuốc hạ sốt ở nhà;
- Tuân thủ đúng hướng dẫn của bác sĩ và thông báo ngay cho bác sĩ nếu xuất hiện thêm triệu chứng bất thường mới.
Các biện pháp chẩn đoán bệnh
Chẩn đoán xác định dựa trên việc tìm thấy ký sinh trùng trong hồng cầu khi soi tiêu bản trên kính hiển vi quang học. Một hồng cầu có thể mang các giai đoạn khác nhau của ký sinh trùng, và tỷ lệ hồng cầu nhiễm có thể quá 10%. Có thể cần phải làm xét nghiệm này lại nhiều lần; ký sinh trùng lưu hành trong máu có thể thấy rõ sau 2 - 4 tuần.
Do bệnh có nhiều đặc điểm giống với sốt rét nên Babesia cần phân biệt với ký sinh trùng sốt rét, đặc biệt là Plasmodium falciparum.
- Về mặt lâm sàng, bệnh có các biểu hiện sốt thất thường, rét run, đau đầu, vã mồ hôi, đau cơ và mệt mỏi nhưng các triệu chứng không có tính chu kỳ như sốt rét.
- Về mặt xét nghiệm: có thể thực hiện phân lập qua cấy máu của bệnh nhân cho chuột họặc gerbil (một loài gặm nhấm khác), sau đó dùng phương pháp miễn dịch huỳnh quang gián tiếp để so sánh hiệu giá kháng thể nhằm chẩn đoán phân biệt. Hoặc dùng xét nghiệm PCR có độ đặc hiệu tương đương nhưng có độ nhạy cao hơn.
Các biện pháp điều trị bệnh
Hầu hết các trường hợp người bệnh bị nhiễm trùng Babesia thường tự khỏi mà không cần điều trị gì đặc hiệu (chủ yếu là điều trị triệu chứng). Nhiễm B. microti ở bệnh nhân có lách nguyên lành thường tự khỏi.
Ở một số bệnh nhân, đặc biệt những người đã phẫu thuật cắt lách thì cần điều trị kháng sinh (Clindamycin, Azythromycin) kết hợp với các thuốc diệt ký sinh trùng (Quinin, Atovaquon);
Trong một số trường hợp nặng, truyền máu cũng đã được thực hiện để làm giảm thấp mật độ ký sinh trùng trên bệnh nhân, cũng có hiệu quả ở một số bệnh nhân bị bệnh nặng với tỷ lệ hồng cầu nhiễm lớn hơn 10%. Trong những trường hợp đe dọa tính mạng có thể thực hiện truyền máu trao đổi, khi đó hồng cầu nhiễm sẽ bị loại bỏ và thay bằng hồng cầu tươi.